Bài 1: Bốn Chân L Ý Nghĩa Tứ Diệu Đế ", Bài 1: Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế)

Tứ diệu đế là gì?

Tứ Diệu Đế hay còn gọi là TứThánh Đế được coi là cốt tủy, là nền tảng của hệ thống giáo lý trong đạo Phật.Tứ Diệu Đế giúp ta nhận thức chân thật về cuộc đời.

“Tứ” có nghĩa là bốn; “diệu” làquý báu; “đế” nghĩa là sự thật.

Bạn đang xem: Bài 1: Bốn Chân L Ý Nghĩa Tứ Diệu Đế ", Bài 1: Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế)

“Tứ diệu đế” là bốn sự thật quýbáu mà Đức Phật Thích Ca phát hiện ra, chứng nghiệm sự thật, tuyên bố ra bốnđiều này về cuộc sống kiếp nhân sinh của chúng ta.”

Đức Phật dạy rằng: “Nếucon người ta không hiểu rõ Tứ Diệu Đế là gì thì không có cách nào khác có thểtránh được con đường sinh tử luân hồi, không hiểu rõ Tứ Diệu Đế là gì thì sẽkhông thể nào tìm được con đường để thoát ly khổ đau, trầm luân từ kiếp nàysang kiếp khác”.

Tứ Diệu Đế chỉ rõ sự thật vềcuộc sống khổ đau của con người, về nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến đau khổ, vềsự chấm dứt đau khổ và phương pháp thực hành dẫn đến việc chấm dứt khổ đau.Giáo lý này bao hàm đầy đủ cả hai mặt lý thuyết và thực hành.

Ý nghĩa sâu sa của Tứ Diệu Đếlà đưa ta tìm về những nguyên nhân dẫn đến khổ đau cũng như con đường giúpchúng sinh vĩnh viễn giải thoát khổ đau, đạt được hạnh phúc chân thật.

Tứ diệu đế bao gồm

- Khổ đế: Sự thật về đau khổ(dukkha)

- Tập đế: Nguyên nhân của đaukhổ (samudaya)

- Diệt đế: Chấm dứt đau khổ đikèm với chấm dứt tham ái (nirhodha)

- Đạo đế: Con đường giải phóngchúng ta khỏi đau khổ (magga)

I. KHỔ ĐẾ


*

1. Khổ đế là gì?

Sự thật đầu tiên mà Đức Phật thấy rõlà Khổ đế. Khổ là một sự thật trong cuộc đời này. Dù giàu có như vua, hay nghèokhổ như ăn mày thì chúng ta cũng bị khổ. Người nghèo có cái khổ của ngườinghèo, người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu.

Khổ đế (Dukkha Ariyasacca) nói về sựkhổ ở đời.

Khổ không chỉ có nghĩa là cảm giácđau đớn, khổ nhọc thân, tâm mà còn chỉ trạng thái cảm thấy không yên ổn, khôngthỏa mãn những mong muốn trong lòng.

Theo quan niệm của Phật giáo thìnhững thứ khổ con người phải chịu là cái khổ trong tam giới và đều là nhân đểđời sau phải chịu quả trầm luân vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sinh tửthật là khổ, không ai không gặp, không ai chối bỏ được, nó như là cái hiểnnhiên đối với con người, nên gọi là Khổ đế.

Khổ đế là sự thật đúng đắng vữngchắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật này rõ ràng minh bạch, không aicó thể tránh khỏi và chối cãi được.

2. Hành tướng của khổ đế

Nỗi khổ đau trong cuộc đời này là vô cùngvô tận, nhưng không ra ngoài ba khổ hay tám khổ.

Baloại khổ

– Khổ khổ: thân con người sanh ra vốn đãkhổ, thế mà lại chồng lên bao nỗi khổ khác như nóng, lạnh, đói, khát, bao nỗiđau ê chề không bao giờ dứt.

– Hoại khổ: tất cả các pháp hữu vi đềutuân theo quy luật sanh, thành, hoại, diệt, không có một pháp nào tồn tại mãimãi, luôn bị biến đổi theo không gian hay thời gian.

– Hành khổ: tất cả các pháp luôn biến độngkhông dừng yên, làm cho chúng ta đau khổ bởi ý niệm các pháp là vĩnh viễn tồntại.

Bátkhổ

– Sanh khổ: con người từ khi thác thai ởtrong bụng mẹ cho đến khi sanh ra và lớn lên là một chu kỳ khổ đau bất tận. Ởbào thai khổ vì bị cảnh ngục tù ngục thai bào, biết bao sự nóng lạnh đói khát,sự nhơ bẩn. Đến khi sanh ra thai nhi phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá épbốn bề. Đến khi lớn lên phải tìm kế sanh nhai xiết bao nỗi cay đắng nhọc nhằn.

– Lão khổ: tuổi già tất khí huyết hao mòn,bên trong lục phủ ngũ tạng càng mỏi mệt, mọi hoạt động đều yếu ớt, bên ngoàicác giác quan lần hư hoại, xác thân ngày một rã rời.

Đó mới nỗi khổ thân xác, còn tinh thầnsanh ra lẫn lộn nhớ trước quên sau, mọi người khinh chê hắt hủi. Người xưa nói:“Đa thọ đa nhục” quả không sai chút nào.

– Bệnh khổ: làm người ai mà không có bịnh,chúng ta thử nghiệm chỉ một chút bịnh nhỏ như đau đầu, đau răng nỗi khổ đã lớn,thế mà có người bị những chứng bịnh kinh niên, như ung thư, bao tử, tiểu đường…nỗi đau lại càng bất tận.

– Chết là khổ: cuộc đời mấy ai không sợchết, chết là một nỗi khổ lớn nhất của đời người. Con người sợ chết đến nỗitrong hoàn cảnh sống thừa, thế mà nghe nói cái chết không ai dám nghĩ. Lạitrong quá trình thần thức rời khỏi thể xác là cả một sự đau đớn vô ngần.

– Ái biệt ly khổ: trong tình yêu thương vợchồng con cái đang mặn nồng, thế mà bị chia ly mỗi người mỗi ngã, thử hỏi cónỗi khổ nào bằng. Sự chia ly có hai loại là sanh ly và tử biệt.

– Cầu bất đắc khổ: ở đời con người ai cũngnuôi đầy hy vọng mong cầu, hoặc cầu cho mình được giàu sang, danh vọng lẫylừng… nhưng thử hỏi mấy ai được toại ý nguyện. Đã không đạt hành ý nguyện thìnỗi khổ đau càng lớn.

– Oán tắng hội khổ: ở trong cảnh thươngyêu không ai muốn chia ly, trong cảnh hờn ghét lại không muốn gặp gỡ, nhưngkhốn nỗi khi oán thù không muốn chung đụng lại thường gặp gỡ, mỗi khi gặp nhauthì sôi gan tím ruột, thế gian có câu: “thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt”.

– Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tứ đại của conngười là do năm ấm hợp lại thành, gồm sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thứcấm. Do bởi sự xung khắc của năm uẩn khiến con người phải chịu sự chi phối củavô thường, khổ, không và vô ngã.

3. Đức Phật nêu lên những nỗi khổ để làm gì

Như chúng ta biết đạo Phật là đạo nhưthật, là đạo lấy trí tuệ làm căn bản, đức Phật nhận thấy bản chất của cuộc đờilà khổ đau, nhuốn đầy mầu bất tịnh, vì thế Ngài nói lên sự thật này cho mọingười thấy được. Có chấp nhận sự thật dù là điều không ai muốn, chúng ta mới cóthể giải quyết được nỗi khổ đeo đẳng đời người. Tóm thâu, đức Phật nói sự khổkhông ngoài những mục đích sau.

– Gặp cảnh khổ không khủng khiếp: conngười ai cũng muốn mình hạnh phục, không có khổ, tuy nhiên dầu không muốn nỗikhổ đau vẫn luôn song hành với đời người. Vì vậy khi biết được bản chất cuộcđời là khổ, chúng ta gặp phải những cảnh trái ý nghịch lòng vẫn không sanh tâmhốt hoảng và lo âu.

– Không tham cầu sẽ không bị ngoại cảnhchi phối: biết được càng ham muốn lại càng nhiều khổ đâu, chúng ta sẽ tiết chếlại sự ham muốn. Đạo Phật luôn đề cao tinh thần thiểu dục tri túc, chỉ cóphương thức giảm bớt lòng ham muốn con người mới có thể vơi đi được những niềmđau nỗi khổ của cuộc đời.

– Gắng sức tu hành để thoát khổ: khi biếtđược tham muốn là cội gốc khổ đau chúng ta sẽ phát tâm tu hành để mong cầuthoát khổ. Hạnh phúc chỉ tồn tại nơi tâm hồn tràn ngập sự thanh tịnh và mở rộngtình thương đối với vạn loại chúng sanh. Nói cách khác, ý niệm khổ đau càngnung nấu là tiền đề căn bản cho sự tinh tấn tu hành.

II. TẬP ĐẾ


*

1. Tập đế là gì?

Tập đế là chân lý chỉ bày nguyên nhân củasự khổ. Con người vì vô minh, vì nghiệp tích tập bao đời mà mãi trầm luân trongbể khổ.

Để tận diệt được quả khổ, chúng ta phảitiêu trừ được cái nhân của nó. Tập đế đã chỉ ra thủ phạm đằng sau mọi khổ đaucủa chúng sinh. Đó chính là cái vô minh của trí tuệ, cái ngu si của trí tuệ. Vàtâm ái dục, ái dục tức là tham đắm dục lạc.

Nguyên nhân sâu xa của khổ đau trong nhânloại và chúng sinh là tham ái dục, gọi là tham đắm ái dục, tức là mình tìm cầudục lạc, khoái lạc của dục. Đó là nguyên nhân sâu xa của các khổ, tham đắm, bámchấp vào ái dục.

2. Nguyên nhân khổ đau

Nguyên nhân gây thành khổ đau theo đạoPhật không ngoài các món phiền não. Phiền não của con người thì vô lượng vôbiên, đạo Phật gọi là tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não, nhưng tóm thâukhông ngoài mười loại sau.

– Tham: nghĩa là tham lam. Tánh tham làmcho con người phải theo dõi và tìm kiếm, cũng như nghĩ mọi cách để chiếm đoạtnhững gì mà bản thân ưa thích. Lòng tham con người không ngoài việc tài, sắc,danh, thực và thùy. Trừ những vị tu hành có sức định cao, phần nhiều con ngườikhông ai thoát ra sự chi phối của năm món dục này.

– Sân: sân là lòng nóng giận. Con ngườikhi gặp cảnh thuận thì sanh tâm tham đắm, nhưng khi gặp cảnh trái ý nghịch lònglại sanh tâm sân hận. Mỗi khi lòng sân nổi lên, sắc diện biến đổi không làm chủđược lý trí của mình. Trong kinh Hoa nghiêm dạy: “Một niệm sân nổi lên, sẽ đóngchặt tất cả cửa thiện pháp”, qua đó chúng ta thấy được tác hại to lớn của tâmsân hận.

– Si: si nghĩa là si mê mờ ám. Khi lòng sikhởi con người sẽ mất hết lý trí, không sáng suốt để nhận chân và giải quyếtvấn đề một cách hợp lý. Si cũng giống như một bức màn đen tối phủ kín, làm chocon người không thấy được sự vật bên ngoài.

– Mạn: mạn là ngã mạn, tức tự nâng caomình và hạ thấp ngươi khác, tự thấy mình quan trọng và khinh rẽ người. Lòng ngãmạn khiến con người không chấp nhận cái đúng của người, lúc nào cũng thấy mìnhgiỏi hơn, đó là nguyên nhân làm cho con người ngày càng bế tắt trên con đườngphát triển đạo đức và tri thức.

– Nghi: nghi tức là nghi ngờ, không cólòng tin. Người này đối với những lời dạy về chân lý sự thật, họ không tintưởng luôn hoài nghi. Đại để lòng nghi có ba phương diện.

Nghi mình: nghi bản thân, như nghĩ khôngbiết mình tu hành như thế có đạt được sự giải thoát hay không. Nghi pháp, nghipháp môn đang tu có đúng với lời Phật dạy không. Nghi thầy, nghi vị thầy hướngdẫn mình tu hành, có thực chứng được pháp môn đang hướng dẫn cho mình không.

– Thân kiến: là chấp thân tứ đại ngũ uẩngiả hợp này là của ta, từ đó kéo theo bao mối chấp khác, cái này là ta, là củata… Do chấp ngã mà bao mối ích kỹ hẹp hòi trong đời sống con người phát sanh.Người tu cần thấy được sắc thân này là giả hợp, là vô thường, mới thăng tiếntrên con đường giải thoát.

– Biên kiến: nghĩa là chấp một bên, nghiênvề một phía, có thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn: Đoạnkiến, chấp rằng con người sau khi chết là hết, không có đời sau. Thường kiến,chấp sau khi chết rồi cái ta vẫn tồn tại, người chết sẽ tái sanh làm người, convật chết lại sanh làm vật.

– Kiến thủ: chấp chặt sự hiểu biết sai lầmcủa mình, trên hai phương diện.

Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm củamình: bản thân sai lầm nhưng không nhận lỗi, chắp chặt cho mình là đúng khôngnghe lời khuyên của người khác. Kiến thủ vì cứng đầu: biết mình sai nhưng vìlòng tự ái, không nhận sai để sửa.

– Giới cấm thủ: làm theo những giới điềusai lầm của ngoại đạo. Như khi Phật còn tại thế, có tôn giáo chủ trương muốngiải thoát phải tu khổ hạnh, hoặc có phái chủ trương sống buông thả sẽ đạt đượcgiải thoát, đây đều là những giới điều sai trái.

– Tà kiến: chấp theo lối tà, không chânchánh, hoàn toàn trái với sự thật, trái với luật nhân quả. Nói cách khác, tàkiến là mê tín dị đoan, như tin theo các đạo nhảy vọt, đạo thờ lửa, hoặc tincác việc xin xăm, bói quẻ…

Xem thêm: sách giải thích ngữ pháp tiếng anh mai lan hương

III. DIỆT ĐẾ


*

1. Diệt đế là gì?

Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây làdiệt dục vọng mê mờ, phiền não. Đế là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sángsuốt soi thấu mà thuyết minh.

Diệt đế là sự thật đúng đắn mà mọi ngườiđều có thể đạt được, sau khi đã diệt trừ hết thảy phiền não, mê mờ. Bởi phiềnnão, mê mờ là nguyên nhân của khổ đau.

Không chỉ nói về khổ và nguyên nhân củakhổ, đức Phật còn chỉ cho chúng ta thấy rằng có thể tận diệt khổ đau, chấm dứtluân hồi sinh tử, đạt được giác ngộ giải thoát chân thật.

Trạng thái giải thoát đó thường được gọidưới cái tên Niết bàn tịch diệt. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, Niết bàn khôngphải một cõi, một nơi nào đó xa rời thế gian này, cũng không thể hiểu một cáchmáy móc rằng nơi đó chỉ có sự rỗng không, vắng lặng, diệt trừ hết tất cả chẳngcòn gì tồn tại, hiện hữu. Niết bàn là sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, là sựvắng mặt của tham, sân, si là tâm giác ngộ tuyệt đối vốn siêu việt mọi ngôn từvà nhận thức thế gian thông thường.

2. Các tầng bậc tu chứng

Hành giả nếu tu qua bốn món gia hạnh làNoãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhất vị, tức phá được cái lầm về tri kiếnhay kiến hoặc, chứng được Tu đà hoàn, quả vị đầu tiên trong bốn thánh quả,

– Tu đà hoàn: dịch là dự lưu. Ở quả vị nàyý thức đã sáng suốt, không còn bị mê lầm, song đệ thất thức vẫn còn chấp ngã,nên phải trở lại cõi dục, nhiều nhất là bảy lần sanh tử, mới sạch phiền nãokiết sử thâm kín trong tâm thức, mà chứng quả A la hán,

– Tư đà hàm: dịch là nhất lai, nghĩa làcòn một lần sanh lại cõi dục tu hành và dứt cho sạch phần mê lầm dục giới, mớitiến đến chứng quả A la hán. Sau khi chứng thánh quả đầu tiên, phải tu nữa đểđoạn trừ tư hoặc mới chứng được quả này. Tuy nhiên, ở cõi dục có chín phẩm tưhoặc, nhưng quả vị này chỉ đoạn được sáu phẩm, còn ba phẩm chưa đoạn, vì thếphải trở lại một lần nữa để đoạn trừ cho hết, mới chứng quả A la hán.

– A na hàm: dịch bất lai (không còn trởlại cõi dục), đến địa vị A na hàm những mê lầm không còn, nên không bị táisanh, trừ trường hợp phát nguyện trở lại để hóa độ chúng sanh. Vị này ở cõitrời tịnh cư thuộc sắc giới, cũng còn gọi là ngũ bất hòan thiên. Tuy vậy họ vẫncòn mang trong mình những vi tế câu sanh của hai cõi sắc và vô sắc, phải tuluyện để sạch hết vi tế hoặc mới chứng quả A la hán.

– A la hán: là quả vị cao nhất trong Thanhvăn thừa, dịch ba nghĩa.

Ứng cúng: vị này có phước đức, có trí tuệhơn cả, đáng làm phước điền cho chúng sanh ứng cúng.

Phá ác: vị này đã phá tan những phiền nãotội ác, không còn bị chúng sai sử nữa.

Vô sanh: vị này không còn bị xoay chuyểntrong vòng sanh tử luân hồi, vì đã phá sạch hết mọi phiền não.

3. Diệt đế là Niết bàn

Diệt đế là cảnh giới hoàn toàn đoạn tậnkhổ đau, đây là tên khác của niết bàn. Vậy niết bàn là gì?

Niết bàn hay còn gọi nê hoàn. Niết bàn cónhiều nghĩa như sau.

Niết ra khỏi, bàn là rừng mê, niết bàn cónghĩa ra khỏi rừng mê.

Niết là chẳng, bàn là dệt. Nghĩa là cònphiền não là còn dệt ra sanh tử, hết phiền não thì không còn dệt sanh tử. VậyNiết bàn là không dệt ra sanh tử luân hồi.

Theo định nghĩa trên thì bốn quả vị thánhTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán đều goi là Niết bàn. Song vì tínhchất đã hoàn toàn giải thoát hay chưa hoàn toàn giải thoát của mỗi quả vị màphân thành hai loại

Niếtbàn của thanh văn

– Hữu dư y niết bàn: (Niết bàn chưa hoàntoàn).

Từ quả vị thứ nhất đến quả vị thứ ba, tuyđã đoạn trừ tập nhân phiền não, nhưng chưa diệt sạch, tuy đã vắng lặng nhưngchưa viên mãn. Sự an vui chưa hòan toàn, vì phiền não và báo thân còn sót lại,nên gọi Niết bàn hữu dư y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanhtử trong năm bảy đời, song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tựtại, không bị ràng buột như chúng sanh.

– Vô dư y niết bàn: (Niết bàn hoàntoàn).

Đến quả vị A la hán đã đoạn hết phiền não,diệt hết câu sanh ngã chấp, nên hoàn toàn giải thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả.Sự sanh tử không còn buột ràng, nên gọi là Hữu dư y niết bàn. Đây là quả vị caonhất hàng Thanh văn. Đến đây ngọn lửa dục vọng đã tắt hết, và trí vô ngại hiệnra một cách đầy đủ, không trở lại khởi tâm chấp ngã nữa. Vì thế nên được tự tạigiải thoát trong ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

Niếtbàn của đại thừa

Niết bàn giữa đại và tiểu thừa có hailoại, nhưng hoàn toàn không sai biệt trên tính chất, chỉ có phạm vi rộng hẹpkhác nhau. Bởi tính chất rộng lớn nên Niết bàn Đại thừa được phân thành hailoại.

– Vô trụ xứ niết bàn: niết bàn của các vịBồ tát, các vị này do đã hiểu rõ “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, pháptánh bình đẳng như như, không thấy một pháp nào cố định, một vật gì chắc thật,biệt lập chỉ thấy chúng là những hình ảnh giả dối, do đối đãi bởi thức tâm, tạothành bởi thức tâm. Các vị Bồ tát tu hành chứng tự tánh bình đẳng, đem tâm hòađồng với sự vật làm việc lợi tha. tuy làm việc lợi tha mà vẫn thường trụ trongchánh niệm, luôn quán các pháp như huyễn, như hóa không có thật, do đây Bồ tátthường ra vào trong sanh tử lấy pháp lục độ giáo hóa chúng sanh, nhưng vẫnkhông rời niết bàn giải thoát.

– Tánh tịnh niết bàn: là loại niết bàn tựtánh thường vắng lặng mà sáng suốt, thường sáng suốt nhưng vắng lặng, vượt rangoài tâm lượng hẹp hòi của phàm phu và trí thức hữu hạn của nhị thừa. Nóthường bộc lộ sáng suốt nơi chư Phật, nhưng vẫn thường sẵn có nơi mỗi chúngsanh. Trong kinh có khi gọi là Phật tánh, chân tâm, Như lai tạng…

Tánh tịnh niết bàn là loại niết bàncó đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, vì vậy đây là niết bàn cao nhất của đạoPhật. Người Phật tử trong khi tu hành, đều phát nguyện chứng được niết bàn này.

IV. ĐẠO ĐẾ


*

1. Đạo đế là gì?

Đạo là con đường, là phương pháp; cũng nhưđạo Phật là con đường để đi đến thành Phật. Đạo đế chính là con đường, phươngpháp diệt khổ mà Đức Phật đã tuyên thuyết.

Con đường hướng đến giác ngộ đã được ĐứcPhật vạch rõ chi tiết trong Đạo đế, là sự thật về con đường chấm dứt khổ đau,đưa đến hạnh phúc chân thật.

Trong đó, Đức Phật chỉ ra tám con đườngchính, bao gồm: thấy biết chân chính (chính kiến); suy nghĩ chân chính (chínhtư duy); lời nói chân chính (chính ngữ); nghề nghiệp chân chính (chính nghiệp);đời sống chân chính (chính mệnh); siêng năng chân chính (chính tinh tiến);tưởng nhớ chân chính (chính niệm); định tâm chân chính (chính định). Tám conđường chân chính ấy, Phật giáo gọi là Bát Chính đạo.

2. Hành tướng của đạo đế

Đạo đế là những pháp môn tuhành, để đoạn trừ phiền não. Những pháp môn tu này nói rộng, không ra ngoài bamươi bảy phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo bao gồm tứ niệm xứ, tứ chánhcần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.

Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo,phần quan trọng nhất là bát chánh đạo. Có thể nói hẹp ba mươi bảy phẩm trợ đạolà bát chánh đạo. Nơi bài này, chúng tôi xin sơ lược trình bày đạo đế qua nộidung của bát chánh đạo.

Bát chánh đạo là tám con đườngngay thẳng, hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sanh đến đạo quả niết bàn.


*

Bát chánh đạo bao gồm chánhkiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánhniệm và chánh định.

– Chánh kiến: còn gọi là chánhtri kiến, là đối với các việc thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, côngminh đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến sẽ phân biệt được cái nàolà thật cái nào là giả, không bị những dục vọng che lấp làm sai lạc.

– Chánh tư duy: chánh tư duy làsuy nghỉ, xét nghiệm chân lý một cách chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.Người có chánh tư duy, thường xét nghỉ thể tánh cao siêu, suy tìm thể tánhnhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối, biếtsuy nghĩ về ba môn học vô lậu giới định tuệ.

– Chánh ngữ: chánh ngữ là nóilời chân thật, công bình ngay thẳng và hợp lý. Người có chánh ngữ, không baogiờ nói lời sai sự thật, không thiên vị thấy sao nói vậy. Phàm cái gì đúng lý,hợp lẽ có lợi ích cho mọi người là nói, dù lời nói ra có bị kẻ khác ganh ghét,

– Chánh nghiệp: là hành độngviệc làm chân chánh, việc làm đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý có lợi íchcho mình và người. Người có chánh ngữ luôn hành động thận trọng, giữ gìn mọihành động của mình, để khỏi làm làm tổn hại đến người khác.

– Chánh mạng: là sanh sống mộtcách chân chánh bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch. Người có chánh mạngsống một đời sống ngay thật, không gian tham, không làm giàu có trên mồ hôi vàxương máu của kẻ khác. Người sống chánh mạng là làm những công việc nào, có lợimình lợi người họ mới làm.

– Chánh tinh tấn: tinh tấnnghĩa là siêng năng, thẳng tiến đến một mục đích đã vạch sẵn. Người sống cóchánh tinh tấn trước tiên bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừnhững điều ác, quyết tâm làm những việc lành. Nghĩa là quyết tạo nghiệp vô lậuxuất thế, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy niết bàn làm chỗ quy hướng. Công phuvững chải quyết thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề.

– Chánh niệm: niệm là ghi nhớ,chánh niệm là ghi nhớ những điều hay lẽ phải, những điều làm lợi lạc cho mìnhvà người, những đạo lý chân chánh cao siêu.

Chánh niệm có hai phần. Chánhức niệm là nhớ đến các điều lỗi lầm, và nghỉ nhớ đến bốn ân sâu nặng. Chánhquán niệm, là dùng tâm từ bi, xét nghỉ đến cuộc đời là khổ não, tật bịnh, để mởrộng lòng thương yêu và giúp đỡ mọi người.

– Chánh định: định nghĩa là tậptrung tư tưởng vào một vấn đề, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tưtưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý có lợi ích cho mình và người.

Người tu theo chánh định,thường tập trung tâm ý để quán sát những việc như quán thân bất tịnh, quán từbi, quán nhân duyên, quán giới phân biệt, quán hơi thở…

Tóm thâu, nội dung đạo đế khôngra ngoài bát chánh đạo. Bát chánh đạo nếu tóm gọn là ba môn giới địnhtuệ. Trong bát chánh đạo, chánh kiến, chánh tư duy là tuệ, chánh ngữ, chánhnghiệp, chánh mạng là giới, và chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là định.Như vậy đạo đế chính là triển khai tinh thần giới định tuệ.

Đức Phật chủ trương cuộc cáchmạng tâm hồn, giải thoát con người ra khỏi lửa tham dục, ngục oán tù và thác simê, bằng con đường tam vô lậu học giới định tuệ.

Xem thêm: school uniforms are common in secondary schools in nations

Kết luận

Như vậy, với trí tuệ sáng suốt của bậcToàn Giác, Đức Phật đã chỉ ra bốn sự thật trong kiếp nhân sinh: sự thật về khổ,nguyên nhân của khổ, cách diệt khổ và con đường chấm dứt khổ đau. Đó chính làTứ diệu đế – giáo lý hoàn chỉnh mang lại hạnh phúc vô tận cho chúng sinh. ĐứcPhật đã giương cao ngọn đuốc dẫn dắt chúng sinh ra khỏi nơi tăm tối vô minhbằng con đường Bát chính đạo.

Tứ diệu đế là giáo lý căn bản của đạoPhật. Có thể nói tất cả mọi nguồn giáo lý của đạo Phật đều được dựng lập trêngiáo lý tứ diệu đế. Đại thừa và tiểu thừa cũng đều triển khai tinh thần này.