Sắc Tức Thị Không Không Tức Thị Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc

SẮC TỨC THỊ KHÔNG - KHÔNG TỨC THỊ SẮCNguyên tác: Pháp sư Ấn Thuận | Nguyên Chơn trích dịch

Bạn đang xem: Sắc Tức Thị Không Không Tức Thị Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc

*
*
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giản và nổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp. Điều này rất thích hợp với giới Phật học Trung Quốc vốn chuộng sự giản dị và viên dung, nhưng nó mang ý nghĩa rốt ráo như thế nào, hẳn cũng có người chưa hiểu rõ, hoặc chưa từng lưu tâm đến. Dù vậy đến nay câu kinh này đã trở thành một thành ngữ quen thuộc của hàng Phật tử cũng như giới trí thức. Hơn nữa câu kinh này có thể xem là đại biểu cho giáo lí đạo Phật, luôn được nhắc đến.

Những năm gần đây, tại Đài Loan cũng có một số người đề xướng thảo luận câu kinh này. Nhưng tôi thì không thích thế, mà chỉ muốn lược thuật một vấn đề thật không đơn thuần đến với đại chúng.

“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ, biểu thị cho toàn bộ tư tưởng hàm chứa trong bộ kinh trên. Từ đó mà có nhiều kinh luận với nhiều cách phiên dịch và giải thích khác nhau.

Trong bản dịch của Ngài Huyền Trang có ghi:

“Quán chiếu thấu rõ năm uẩn đều không, cho nên vượt qua tất cả khổ nạn”.

“Này Xá-lợi-phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế”.

“Xá-lợi-phất! Tướng không của các pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt. Cho nên trong “không”, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức”.

Đoạn văn kinh trên gồm ba phần:

- Giới thiệu.

- Giải thích

- Kết luận.

Phần giới thiệu nêu lên điểm chủ yếu là “Năm uẩn đều không”. Năm uẩn gồm sắc (hiện tượng vật lí, sinh lí), thọ, tưởng, hành, thức (hiện tượng tâm lí). Đối với sự quán chiếu của bồ-tát thì tất cả hiện tượng ấy là không. Vì sao gọi là không? “Không” mang ý nghĩa gì? Kinh chép: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế”. Vậy sở dĩ sắc là không, cũng như quan hệ giữa không và sắc thì kinh văn đã giải thích rõ, cuối cùng phần kết luận xác nhận “không” chẳng phải gì khác mà chính là tướng không của các pháp, không sinh, không diệt… mà bồ-tát chứng ngộ. Trong tướng không của các pháp thì năm uẩn đều bất khả đắc (không thật), vì bất khả đắc cho nên không thấy, vì không thấy nên không chấp trước vậy.

Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh có rất nhiều bản Hán dịch. Khi đối chiếu tôi thấy có mấy điểm cần nêu lên để bổ sung:

- Trong bản dịch của ngài La-thập và ngài Huyền Trang đều ghi: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Còn các bản dịch của ngài Thi Hộ, Pháp Nguyệt, Trí Tuệ Luân ghi: “Ngũ uẩn tự tánh giai không”. Bản dịch của Pháp Thành ghi: “Ngũ uẩn thể tánh giai không”.

“Ngũ uẩn giai không” nghĩa là tự tánh của năm uẩn là “không”. “Không” là tên khác của vô tự tánh.

Bản dịch của ngài La-thập, Pháp Nguyệt, tam tạng sa-môn Bát-nhã và Lợi Ngôn ghi: “Thị chư pháp không tướng”. Bản dịch của ngài Trí Tuệ Luân ghi: “Thị chư pháp tánh tướng không”. Bản dịch của ngài Pháp Thành ghi: “Nhất thiết pháp không tánh”.

“Không tướng” (tướng không) là tên khác của “không tánh” (tánh không).

Xét hai điểm bất đồng về văn kinh trong các bản Hán dịch trên, có thể cho là không lầm lẫn mà còn bổ sung nhau, làm sáng tỏ hơn. Ngoài ra, trước đoạn “Sắc bất dị không… không tức thị sắc”, thì bản dịch của ngài Pháp Nguyệt ghi: “Sắc tánh thị không, không tánh thị sắc”. Bản dịch của Trí Tuệ Luân ghi: “Sắc không, không tánh hiện sắc”.

Trong Tâm kinh và kinh Đại Bát-nhã, Đức Phật cũng nói cho ngài Xá-lợi-phất nghe một câu tương tự như thế. Nay cũng nêu lên để cùng so sánh tham khảo. Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật 1 quyển (bản y cứ của luận Đại Trí độ), ngài La-thập dịch:

“Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Li sắc diệc vô không. Li thọ, tưởng, hành, thức diệc vô không”.

“Sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức thị không, không tức thị sắc”.

“Chư pháp thật tánh vô sanh vô diệt, vô cấu vô tịnh cố”.

(Trong “không” không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; lìa sắc chẳng có không; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có không).

(Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức tức là không, không tức là sắc)

Xem thêm: bộ tem kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đoàn

(Vì thật tánh của các pháp không sinh, không diệt, không dơ, không sạch).

Phần hai kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa của ngài Huyền Trang dịch:

“Sắc tự tánh không, bất do không cố, sắc không phi sắc; sắc bất li không, không bất li sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc”.

“Thọ tưởng hành thức tự tánh không, bất do không cố; thọ tưởng hành thức không cố, phi thọ tưởng hành thức. Thọ tưởng hành thức bất li không, không bất li thọ tưởng hành thức; thọ tưởng hành thức tức thị không, không tức thị thọ tưởng hành thức”.

“Như thị tự tánh, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh”.

( tự tánh của sắc là không, chứ chẳng phải do không. Sắc là không, nên sắc chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc).

( tự tánh của thọ tưởng hành thức là không, chứ chẳng do không. Thọ tưởng hành thức là không, nên thọ tưởng hành thức chẳng phải thọ tưởng hành thức. Thọ tưởng hành thức chẳng lìa không, không chẳng lìa thọ tưởng hành thức. Thọ tưởng hành thức tức không, không tức thọ tưởng hành thức).

(Tự tánh như thế, cho nên không sanh, không diệt, không nhiễm ô, không trong sạch).

Phần đầu và phần ba của hai bản dịch kinh Đại Bát-nhã tương đồng với bản Tâm kinh của ngài Huyền Trang dịch. Nhưng trước câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” có ba câu: “Sắc tự tánh không, bất do không cố, sắc không phi sắc” thì hợp với tông Duy Thức hơn. Vả lại, Tâm kinh do Pháp Nguyệt và Trí Tuệ Luân dịch có thể xem là xuất xứ từ bản dịch Tâm kinhcủa tông Duy Thức. Luận về hai bản dịch Tâm kinh của ngài Huyền Trang và La-thập, thì bản của ngài La-thập gần với cổ bảnTâm kinh tiếng Phạn hơn.

Thông thường mọi người chỉ biết đến sự viên dung của “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, mà không chú ý đến nghĩa hoàn chỉnh bao hàm trong toàn bài kinh. Tức bỏ quên điều chính yếu là câu này dùng để thuyết minh “năm uẩn đều không”, mà chỉ chú trọng đến “thật tướng các pháp” và “trong “không” không có sắc… ”. Vả lại, đây là vấn đề tu chứng chứ chẳng phải vấn đề lí luận. Nếu như chỉ lẩn quẩn trong vòng lí luận “sắc tức là không”, thì sẽ không bao giờ tự giác ngộ.

Thế nào là sắc… tức thị không, không tức thị sắc? Vì sao phải nói như thế? Đó là những vấn đề cần phải lí giải trước tiên.

“Sắc… chính là thế giới mà chúng ta đang tiếp xúc, bao gồm thế giới hiện tượng vật lí và tâm lí. Cái gọi là tổ hợp thân tâm của chúng ta và cảnh giới nhận thức chính là sắc. Tất cả đều là sự thật trước mắt, nhưng chúng sanh chấp trước sự thật này nên vĩnh viễn mê hoặc, vĩnh viễn khổ đau, sống chết không thể tự tại. Đây là một vấn đề trọng đại của nhân sinh đã được Phật giáo xác nhận. Người học Phật cần phải quán chiếu ngay nơi hiện thật (ngũ uẩn) trước mắt này để đạt đến Đại giải thoát (Độ nhất thiết khổ ách). Đây là pháp môn tu chứng chung cho cả Tiểu thừa, Đại thừa, Hữu tông, Không tông, là sự thể nghiệm siêu việt phàm tình. Một sự thể nghiệm rốt ráo thì tâm thức không thể đạt đến, ngôn ngữ không thể diễn bày, tất cả đều “Bất nhị” (chẳng phải) và ngay cả “bất nhị” cũng chẳng lập. Điều này một số người cũng chưa thấu rõ được.

Đức Phật thuyết pháp chẳng phải để nói rõ cảnh giới ấy, Ngài chỉ ngay nơi thân tâm hiện thực trước mắt (ngũ uẩn) này mà hướng dẫn chúng sanh quán chiếu tu trì, khiến họ xa lìa điên đảo tán loạn, thú hướng cảnh giới như thật.

Trong việc tu hành, Đức Phật thường chỉ bày ba pháp ấn: vô thường, vô ngã, tịch diệt; hoặc ba tam-muội: không, vô tướng, vô tác; hoặc: yểm, li, diệt, xả. Vì trong việc tu trì là thực hiện xa lìa tình chấp, cho nên từ nơi không thể lập tên mà gượng lập tên là “không”, “không tánh” (cũng gọi là vô tướng, vô tác, bất sanh diệt).

Người xưa dạy: “Không cũng không, nhưng vì dẫn dắt chúng sanh nên tạm lập danh”. Nếu chấp “không” là không, liền bị lầm lạc. “Không” cũng giống như một nhãn hiệu biểu thị cho cảnh giới chúng sanh không thể nghĩ bàn, mà chỉ có thể đạt được qua quá trình quán chiếu không, vô ngã. Như thế thì các hiện thực trước mắt (ngũ uẩn, năng lực thể nghiệm) không này, đối lập với ý thức của chúng ta. Các học giả thế gian cho đó là hiện thực và lí tưởng, hiện tượng và bản thể, hình nhi thượng và hình nhi hạ.

Trong Phật giáo, về mặt lí luận thì tánh tướng, sự lí cũng đối lập nhau. Như mắt nhặm thấy hoa đốm trong hư không, mắt sáng thì thấy hư không trong lặng, rồi ngay đó cho rằng hoa đốm và trong lặng đối lập nhau mà dẫn đến việc luận đồng luận dị. Đây là điều chúng sanh không ai tránh khỏi.

Cảnh giới “không” (tánh, tướng không) mà có thể thật chứng từ sắc… (ngũ uẩn), đó là sở chứng chung cho tất cả Phật pháp (các thừa). Dùng danh từ để biểu thị sắc-không thì có: hư vọng và như thật, sanh tử và niết-bàn, thế gian và niết-bàn, hữu vi và vô vi, duyên khởi và tịch diệt. Luận theo “năng lực” thì có “vô minh và Bát-nhã”, “vô minh và Bồ-đề”.

Sự thể chứng tánh không của bậc thánh thì có sâu cạn, nhưng cảnh giới chứng ngộ chung của hàng Tam thừa thì không sai biệt. Kinh Hoa nghiêm ghi: “Bồ-tát Bát địa trí chứng tánh vô phân biệt, cũng là sở chứng của hàng Nhị thừa”. Kinh Bát-nhã: “Hàng Nhị thừa trí đoạn là bồ-tát chứng Vô sanh pháp nhẫn”. Kinh Pháp hoa ghi: “Sở hành của các ông là Bồ-tát đạo”.

Ngay nơi thân ngũ uẩn chứng được tướng không, đó là biểu hiện căn cơ Đại thừa bồ-tát. Các vị này không chỉ “quán chiếu thấu suốt năm uẩn đều không” mà còn từ “sắc tức là không” thể nhập “không tức là sắc”. Nếu nhìn về mặt tu tập thì “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là một pháp quán, là phương tiện để đạt đến “không tướng”. Nhưng về mặt lí luận thì đó là biểu thị cho sự khác biệt với hàng Nhị thừa. Bậc thánh Nhị thừa do quán năm uẩn chứng Không tịch, vượt thoát sanh tử, nội dung mang ý nghĩa siêu việt (thoát khỏi sanh tử). Do đó có khuynh hướng lìa năm uẩn chứng lí không, lìa thế gian chứng Niết-bàn. Cũng từ phương tiện và cảnh giới chứng ngộ đó mà lập hệ thống lí luận sanh tử khác biệt niết-bàn, dẫn đến hình thành hai nội dung khác nhau. Từ những ý niệm đó hình thành phong cách của bậc thánh có tâm tha thiết lìa thế gian mà xuất hiện tinh thần “Di thế độc tồn” (độc tồn ngoài thế gian), “Xuất ứ nê nhi bất nhiễm” (Thoát khỏi bùn lầy, chẳng còn ô nhiễm). Đối với Phật giáo, có thể cho rằng đó là sự thanh tịnh của bậc thánh. Ngoài ra, bậc thánh chứng nhập chưa hoàn toàn, tuy biết được mê ngộ không thể so sánh, nhưng mê là mê ở ngũ uẩn hiện tiền. Không tướng mà bậc thánh chứng nhập cũng chính là năm uẩn chứ không phải gì khác.

Quán năm uẩn chứng nhập không tướng thì không tướng chẳng lìa năm uẩn, mà không tướng là năm uẩn, cũng chính là thật tướng, bản tánh của năm uẩn. Như người mắt sáng thấy hư không trong lặng, người mắt bệnh thấy trong hư không có tướng hoa đốm lăng xăng. Đó chẳng phải là vật nào khác, mà chính là chân tướng của hư không do mắt bệnh nhìn thấy có hoa đốm kia rơi loạn.

Chẳng có “không” nào lìa năm uẩn, cũng chẳng có năm uẩn lìa “không”. Những bậc thánh tu tập, quán chiếu như thế là bồ-tát. Từ năm uẩn chứng nhập không tướng là đã mang ý nghĩa nội tại. Chân lí tức không lìa tất cả mà tồn tại. Căn cứ vào tính chất đặc biệt này, mà tự nhiên có khuynh hướng “Tức tục mà chân” và lập lí luận để thuyết minh “thế gian tức niết-bàn”, “sanh tử tức giải thoát”, “sắc tức là không”, “thật tánh của vô minh tức bồ-đề”. Từ đó hình thành phong cách của bồ-tát: Tức thế mà xuất thế, chẳng lìa thế gian mà đồng nhập pháp giới; không đắm vào sanh tử, chẳng trụ ở Niết-bàn; chẳng lìa thế gian, chẳng bỏ chúng sanh. Từ phong cách này dẫn đến tinh thần “niết-bàn mà chẳng lìa thế”.

Xem thêm: cách viết đơn phúc khảo bài thi vào lớp 10

Ngay nơi thân năm uẩn để chứng nhập không tướng, đó là vấn đề căn bản của Phật pháp. Về mặt ý tưởng, lí luận và phong cách tuy biểu hiện tinh thần “li thế siêu việt” của Nhị thừa hoặc “tức thế nội tại” của Bồ-tát thừa, nhưng đặc chất của bồ-tát là “tức tục mà chân”, “tức sắc là không” chẳng lìa thế tục. Thậm chí còn dùng tham, sân, si, mạn làm phương tiện tu trì. Trong quá trình tu chứng, bồ-tát Đại thừa còn phải “Chiếu kiến năm uẩn đều không”, chứng nhập tướng không của các pháp, trong không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do năm uẩn là hiện thật sanh tử rõ ràng trước mắt chúng sanh, cho nên mục tiêu đạt đến chứng ngộ đương nhiên không phải là năm uẩn, mà chính là ngay nơi sắc mà quán không để chứng nhập không tướng. Khi chưa chứng nhập không tướng, không thể cho là diệu ngộ được “tức sắc tức không”. Vì thế quán không để thể nhập không tướng là then chốt để chuyển phàm thành thánh, chuyển mê khai ngộ. Kinh Bát-nhã ghi: “Huệ nhãn không thấy tướng sai biệt của các pháp”. Kinh Kim cang ghi: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”. Tông Duy Thức nói: “Căn bản trí chứng chân như, dứt bặt các tướng”.

Sự hiện chứng của bậc thánh là bước căn bản để đột phá cửa sanh tử. Kinh Mật Nghiêm ghi: “Thấu được chân như, mới có thể rõ được chư hành đều là việc huyễn, tuy có nhưng không thật”. Không giống với chư hành (ngũ uẩn) như huyễn mà thế tục quan niệm, trước tiên cần phải thể hội một bước căn bản là chứng ngộ chân không, sau đó mới dần dần đạt đến. Cho nên Bát-nhã (Căn bản trí) chứng chân, Phương tiện (Hậu đắc trí) đạt tục. Như vậy, Phương tiện là diệu dụng của Bát-nhã, là tác dụng phát sinh sau khi thành tựu Bát-nhã. Đứng về mặt lí luận thì Phương tiện không khác Bát-nhã, là diệu dụng của Bát-nhã.

Ngũ uẩn là “ngũ uẩn tức không”, uẩn và không bất nhị. Nhưng sự thật, việc tu chứng của các bậc thánh Ấn Độ lại là đối diện với hiện thực, cho dù tức sắc tức không, mà chỗ chứng ngộ chính là “không tướng” (chỉ đề cập đến sự chứng đắc của Căn bản trí mà không nói đến sự tu chứng của Bồ-tát –Hậu đắc trí). Điều này đã có những điểm khác biệt với lí luận của một số học giả chuyên luận về huyền bí.