Nguyên Nhân Cái Chết Của Thầy Thích Thông Lạc ? Tang Lễ Trưởng Lão Thích Thông Lạc

Tên của Ngài là LÊ NGỌC AN, pháp danh là THÍCH THÔNG LẠC sinh năm 1928, là người con thứ tư. Lúc Ngài là sinh viên tại Sài Gòn làm thẻ sinh viên và căn cước đề năm sinh 1935, nhờ đó tuổi học trò của Ngài được kéo dài để hoạt động cách mạng trong giới học sinh, sinh viên dễ dàng hơn.
Thừa kế sự nghiệp cách mạng của cha ông, thầy Thông Lạc biến CHÙA AM thành một cơ sở in ấn tài liệu tuyên truyền học tập cách mạng, phát động phong trào yêu nước rộng rãi trong quần chúng, biến thành những cuộc biểu tình chống chế độ độc tài phát xít gia đình trị Ngô Ðình Diệm.
Những cuộc xuống đường biểu tình chống chế độ độc tài phát xít gia đình trị Ngô Ðình Diệm làm cho tề ấp lúc bấy giờ run sợ khiếp đảm, làm hạn chế bớt những tay sai, chó săn, chim mồi của bè đảng Ngô Ðình Diệm. Ngụy quyền ở Trảng Bàng nghi ngờ CHÙA AM làm Cộng sản nên đưa lính đến bao vây chùa bắt thầy Thông Lạc, giam cầm, đánh đập, điều tra đủ mọi cực hình, nào là cho điện giật thầy chết lên chết xuống, nào là treo ngược đầu đổ nước xà phòng, nào là đấm đá, giậm đạp trên ngực, khắp nơi trên cơ thể bầm tím, v.v... Thầy không đi nổi, chúng lôi thầy bỏ vào khu nhà lao, nhờ anh em tù nhân trong phòng giam mang vào chăm sóc cứu chữa xoa bóp dầu. Giặc điều tra cách gì thì thầy Thông Lạc chỉ một mực trả lời không biết, không làm Cộng sản chỉ biết ở chùa tụng kinh niệm Phật mà thôi. Giặc hỏi: -Biết Tám Giò, Chín Ðặng không? - Không quen biết. Những cán bộ điều tra của ngụy quyền nói: -Không biết đánh cho biết, không tội đánh cho có tội. Những trận đòn như vậy thầy Thông Lạc chết lên, chết xuống nhưng thầy Thông Lạc rất gan dạ, chỉ trả lời là không biết.
Giặc nhốt thầy Thông Lạc ba tháng tại Tây Ninh để điều tra. Sau đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chùa Ấn Quang đến lãnh thầy ra.
Sau khi được trả tự do trở về thầy bám trụ CHÙA AM tiếp tục làm cách mạng, vì thầy được anh em cán bộ cách mạng giáo dục chỉ có con đường cách mạng mới giải phóng dân tộc, mới lật đổ chánh quyền tay sai ngụy quân, ngụy quyền và đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi.
Làm cách mạng rất gian khổ, ngồi tù ra khám đó là lẽ thường mà người làm cách mạng nào tiếp cận với giặc thì ít ai tránh khỏi, cho nên làm cách mạng xem sự sống chết và tù tội như chỉ mành treo chuông.
Ở giai đoạn chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm chúng ta nên tham khảo qua những trang sử CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC (1954 – 1975):“Việt Nam với vị trí chiến lược quan trọng ở Ðông Nam Á, đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào chủ nghĩa xã hội ở khu vực. Vì thế Mỹ quyết tâm đè bẹp cách mạng Việt Nam. Sau khi Pháp thất bại, Mỹ nhảy vào thay thế ở Ðông Dương. Mỹ ra sức phá hiệp định Giơnevơ, phá sự nghiệp thống nhất toàn lãnh thổ Việt Nam. Chiếm đóng và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, thành căn cứ quân sự để ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, ngăn chặn và tấn công chủ nghĩa xã hội ở Ðông Nam Á trở thành một trong các khu vực thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ. Ðể đạt mục đích trên, Mỹ đã tiến hành xâm lược miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới, tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam, gấp rút chuẩn bị tấn công miền Bắc. Do đó Mỹ xây dựng bộ máy ngụy quyền, đứng đầu là Ngô Ðình Diệm... Chánh quyền Diệm tự mạo nhận là “CÁCH MẠNG QUỐC GIA” với chiêu bài “ÐẢ THỰC – BÀI PHONG” để che dấu giả tâm bán nước. Trên thực tế chánh quyền Ngô Ðình Diệm đã thực hiện chánh sách tố cộng, diệt cộng để đàn áp tiêu diệt những người yêu nước kháng chiến chống giặc Pháp gây nên những cuộc tàn sát đẫm máu ở miền Nam Việt Nam”. “Từ cuối năm 1954 đến tháng 7 năm 1955 phong trào hòa bình của giới trí thức sinh viên Sài Gòn – Chợ Lớn, trong số đó có sinh viên Lê Ngọc An cùng một số sinh viên khác làm nòng cốt được cách mạng giáo dục chỉ đạo cho cuộc đấu tranh nên mạnh dạn góp ý cùng các bạn sinh viên khác hãy đứng lên đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất theo hiệp định Giơneovơ, đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, đòi cứu tế những nạn nhân xung đột trong các cuộc xung đột giữa chánh quyền Ngô Ðình Diệm với các tôn giáo khác, chống khủng bố v.v...”.
“Ngày 1 tháng 5 năm 1950, 15 vạn công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn mít tinh kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao Ðộng. Ác liệt nhất là cuộc đấu tranh chống các chiến dịch “TỐ CỘNG – DIỆT CỘNG”, bảo vệ những người yêu nước kháng chiến cũ. Từ trong các trại tập trung, khu dinh điền, ấp chiến lược, chống Mỹ Diệm bùng nổ lớn mạnh. Phong trào đấu tranh chánh trị lôi cuốn hàng triệu người bao gồm các tôn giáo: Phật Giáo, Cao Ðài, Hòa Hảo, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam”. “Trong cuộc đấu tranh có sự phối hợp giữa nhân dân thành thị và nhân dân nông thôn rất chặt chẽ, nhiều hình thức phong phú. Kết quả thời kỳ đấu tranh chánh trị là cách mạng miền Nam đứng vững, phục hồi lại, từng bước phát triển để chuẩn bị lực lượng vũ trang cho thời kỳ chiến tranh cách mạng”. “Thời kỳ gay gắt nhất là từ năm 1957 trở đi, Mỹ và chánh quyền Ngô Ðình Diệm như điên khùng chuyển sang chế độ độc tài phát xít, đàn áp công khai tiến hành một cuộc chiến tranh đơn phương đểchống lại đồng bào miền Nam”.
Chánh quyền Ngô Ðình Diệm tiến hành những cuộc càn quét có quy mô lớn liên tục dồn dân vào ấp chiến lược, mà chúng gọi là khu DINH ÐIỀN chớ kỳ thực đó là những trại tập trung dân để nhân dân lìa cách mạng theo chiến lược“CÁ LÌA NƯỚC”. “Chiến lược này hòng tiêu diệt Cộng Sản. Tháng 12 năm 1957 chúng đầu độc chết hàng ngàn người ở nhà tù Phú Lợi. Chúng còn ban hành luật 10/59, lập các tòa án quân sự đặc biệt để chém giết khắp miền Nam”.
Thời gian này CHÙA AM là một trong những nơi bảo vệ anh em cách mạng vừa làm việc và vừa ẩn náu trong ấp Gia Lâm, xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Tết Mậu Thân CHÙA AM chỉ còn một đống gạch vụn, chiến tranh đã tàn phá không những CHÙA AM mà cả xóm ấp Bàu Trâm đều bị điêu tàn, nhà cửa của nhân dân đều bị đốt cháy tan nát trong bom đạn chiến tranh, mọi người đều chạy tản cư tứ tán. Nhưng vị trụ trì CHÙA AM không hề sợ hãi, trở về bám trụ nơi CHÙA AM.
Ngài cất một cái miếu nhỏ để làm ám hiệu. Khi anh em du kích đến miếu thấy có nhang đốt là biết ngay không có giặc kích, thì đi vào ấp chiến lược truy quét tề ấp, còn thấy không có nhang đốt là biết có giặc kích nên rút lui không vào ấp chiến lược. Việc đốt hương hay không đốt hương, vị trụ trì đều giao lại cho người em trai của thầy là Lê Văn Ân. Nhờ có thông tin liên lạc như vậy nên anh em du kích cách mạng biết được tình hình của giặc, nên vào phá ấp chiến lược, kêu gọi nhân dân trở về làng xóm cũ rất dễ dàng. Khi nhân dân trở về làng xóm cũ đông đủ, vị trụ trì CHÙA AM cất một cái một am tranh lá nhỏ để làm cơ sở cách mạng liên lạc thông tin và tiếp tế lương thực, nhất là tổ chức mua súng đạn của giặc, tiếp tế cho anh em du kích.
Ðêm đêm anh em du kích ra bắn phá đồn giặc, khiến giặc sống bất an, nhờ có anh em du kích diệt sạch tề ấp, khiến chúng không quản lý nhân dân được, nhờ đó mới mở rộng vùng cách mạng bao vây sát thị trấn Trảng Bàng; nhờ đó cách mạng ngày càng lớn mạnh cho đến ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.
Muốn biết rõ âm mưu của Mỹ trong giai đoạn này chúng ta hãy đọc lại một đoạn sử cận đại:“Ðể thực hiện chiến tranh đặc biệt chống lại phong trào giải phóng dân tộc do Ðảng Cộng Sản lãnh đạo. Mỹ vạch ra một kế hoạch Tây Lơ sau này được bổ sung kế hoạch Giơn Sơn – Mắc Na Ma Ra gồm ba giai đoạn: Mỹ dự tính thực hiện kế hoạch này là 18 tháng là kết thúc chiến tranh. Khởi sự kế hoạch đó là xây ấp chiến lược dồn dân để cô lập lực lượng cách mạng miền Nam. Mỹ ngụy xây dựng 17.000 ấp chiến lược, biến toàn miền Nam thành một trại tập trung khổng lồ. Mỹ rải chất độc hóa học xuống nhiều vùng dân cư để buộc nhân dân vào ấp chiến lược.
*

1- Bình định miền Nam.
2- Tăng cường phá hoại miền Bắc.
3- Tấn công thôn tính miền Bắc.
Sự kỳ thị tôn giáo của chế độ Ngô Ðình Diệm giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo nổ ra khiến cho phe quân đội nhảy vào tham dự. Tháng 11 năm 1963 Mỹ và nhóm quân đội làm cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu bị giết chết. Sự sụp đổ chế độ độc tài Ngô Ðình Diệm mở đầu cho sự khủng hoảng của chánh quyền Sài Gòn không bao giờ khắc phục được nữa.
“Ngày 20 tháng 8 năm 1964, 30 vạn người bao vây dinh Ðộc lập đòi Nguyễn Khánh từ chức, ngày 20 tháng 9 năm 1964. 10 vạn công nhân bãi công ở Sài Gòn – Gia Ðịnh phản đối chế độ độc tài Nguyễn Khánh. Ngày 24 tháng 8 năm 1964, 3 vạn công nhân Ðà Nẵng bãi thị tuần hành. Tháng 12 năm 1964 nhân dân Huế, Ðà Nẵng, Ðà Lạt biểu tình chống chánh phủ Trần Văn Hương. Tham gia các cuộc đấu tranh chánh trị có nông dân, công nhân, nhân dân đô thị, học sinh, sinh viên, trí thức đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế dân chủ. Năm 1963, có 23 triệu lượt người đấu tranh. Ðấu tranh chánh trị làm tan rã từng mảnh chánh quyền bù nhìn của Mỹ, làm thất bại những cuộc càn quét, làm tan rã ấp chiến lược của Mỹ. Nhờ phối hợp đấu tranh chánh trị với đấu tranh quân sự nên tiêu diệt lực lượng quân sự Mỹ và làm cho lực lượng các chánh quyền tay sai của Mỹ rệu rã. Ấp chiến lược là chiến thuật chiến lược trong chiến tranh đặc biệt của Mỹ, quần chúng nổi dậy đấu tranh chánh trị phá thế kìm kẹp của giặc một cách dễ dàng. Nhờ đấu tranh chánh trị và quân sự biết kết hợp nên làm cho 8.000 ấp chiến lược (85% số ấp) bị phá. Ðể cứu vãn tình thế ngày 1 tháng 11 năm 1963 Mỹ đảo chánh giết chết Diệm – Nhu. Dương Văn Minh lên cầm quyền nhưng bị Nguyễn Khánh lật đổ. Trong giai đoạn này các cuộc đảo chánh tranh giành quyền lực của các phe phái trong chánh quyền ngụy đã đẩy chánh quyền này vào cuộc khủng hoảng triền miên. Chúng ta thấy rõ Nguyễn Khánh lật đổ Dương Văn Minh lên làm thủ tướng, Dương Văn Minh lên làm Quốc Trưởng, Sau đó Nguyễn Khánh làm Quốc trưởng, Trần Văn Hương làm Thủ tướng. Rồi Phan Khắc Sửu lại thay Nguyễn Khánh làm Quốc trưởng. Ðầu năm 1965 Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi cùng nhau lật đổ Phan Khắc Sửu, đưa Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng, trong giai đoạn này ngụy quyền Sài Gòn càng suy nhược và khủng hoảng nên năm 1964 thế lực chánh trị và quân sự của cách mạng rộng lớn và vũ khí đầy đủ vùng lên phá sạch các ấp chiến lược trong miền Nam Việt Nam và đập tan nát ngụy quân ngụy quyền.”
Vào những năm 1970 – 1975 chiến tranh ngút ngàn, Thầy trụ trì còn một người mẹ già, một người anh và hai người em - một trai, một gái. Người anh lớn có gia đình ở Thành phố Sài Gòn, còn người em trai kế cũng có gia đình ở Trảng Bàng. Riêng thầy trụ trì và người em gái đưa mẹ già về nuôi dưỡng bằng sức lao động của mình, cả ba mẹ con chỉ quanh quẩn trong một ngôi nhà nhỏ ở ấp Lò Rèn thuộc vùng chu vi Cao Ðài quản trị, ở đó mới tránh được bom đạn của Mỹ và ngụy quyền. Ấp Lò Rèn bây giờ là ấp Lộc Du, xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Mọi người dân ở trong vùng chiến tranh, ban ngày về bám trụ đất đai và làm tai mắt cho cách mạng, khi trời sắp tối đều phải rời khỏi nơi gia đình mình, gồng gánh đồ đạc, dắt con cái vào vùng chu vi của Cao Ðài để tránh bom đạn.
CHÙA AM nằm trong vùng đất cách mạng, hàng rào CHÙA AM là hàng rào chiến đấu của du kích quân và CHÙA AM cũng là điểm nóng mà giặc Pháp và ngụy quân nên chúng thường xuyên pháo bắn CHÙA AM, lúc nào chúng cũng có thể bắt và bắn phá chùa vì chúng cho đó là nơi Cộng Sản ẩn náu.
Thầy trụ trì vẫn biết điều này nhưng vẫn bám sát anh em du kích, thường làm nhiệm vụ báo tin tức giặc cho anh em biết để đề phòng và vào phá ấp chiến lược giải phóng đồng bào trở về nhà cửa ruộng vườn đất đai cũ.
Ở ấp Lò Rèn, là nơi ở đỡ tránh bom đạn Mỹ Ngụy, ngày ngày em gái thầy ra chợ Trảng Bàng mua bán kim chỉ nhưng thấy không đủ sống nên mới mua dao rựa ở các lò rèn rồi đem bán sỉ tại các chợ ở thành phố Sài Gòn để phụ vào nuôi sống ba mẹ con, nhưng cũng không đủ do đó thầy trụ trì học nghề rèn làm dao rựa để tự sản xuất, nhờ đó thu nhập mới đủ sống.
Những năm tháng vất vả và gian khổ này làm sao quên được người em thân thương của mình phải lăn lộn dưới đường tên mũi đạn thập tử nhất sinh. Trong những năm tháng đó rất là gian khổ, tù tội và sinh mạng như chỉ mành treo chuông. Nhưng vì nghĩ đến cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc thầy không thể bỏ anh em du kích được mà đi nên bám trụ CHÙA AM sống chết có nhau. Nhất là khi được tin Lê Văn Tân, em thầy hy sinh trong trận Tua Hai Tây Ninh. Mẹ khóc mỗi khi thắp hương trên bàn thờ, lòng thương em xót xa vô cùng nên quyết làm hết sức mình để bảo vệ cơ sở để anh em du kích an tâm chiến đấu.
Đường đi buôn bán từ Trảng Bàng về Thành Phố Sài Gòn là một con đường nguy hiểm nhất. Trên đường biết bao nhiêu là mô đất, mỗi mô đất có mô thì đặt mìn, có mô thì không. Tất cả mìn đặt trên đường là của cách mạng, nếu xe nào vô ý cán phải mìn thì cả người và xe chỉ còn những mảnh sắt vụn và một đống thịt tay chân văng tứ tung. Vì cuộc sống để cùng ba mẹ con nương tựa có nhau nên em thầy phải xông pha đi tìm sự sống. Thỉnh thoảng người anh và em trai cũng có về thăm nhưng chỉ trong giây lát rồi lại về lo gia đình, chỉ còn lại ba mẹ con. Thấy mẹ không vui thỉnh thoảng thầy nhắc lại chuyện năm xưa để làm cho mẹ vui.
Tháng 7 năm 1975 đất nước giải phóng xong, bom đạn không còn cày xới trên mảnh đất quê hương, thầy trở về sửa sang lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi CHÙA AM cổ xưa yêu dấu mà tổ tiên để lại, một di tích khó quên, cho nên con cháu không có quyền làm mất gốc, phải trùng tu lại để đánh dấu những trang sử yêu nước của Tổ tiên bằng công lao, mồ hôi nước mắt, bằng xương máu cùng với mọi người dân trong cả nước mới có ngày nay đất nước độc lập hoàn toàn chủ quyền về tay nhân dân Việt Nam. Bởi vậy là con cháu không thể bỏ qua được việc trùng tu. Mẹ mất, Thầy xin một đứa cháu trai về nuôi và đặt tên là MẬT HẠNH. Mật Hạnh được dạy tu hành xả tâm, nên lúc nào cũng thương yêu và tha thứ khi có ai nói trái ý nghịch lòng, vì thế gương mặt Mật Hạnh lúc nào cũng hiền từ, hiện ra sự an lạc và vui vẻ.
Việc trùng tu đầu tiên thầy trụ trì cất lại ngôi CHÙA AM tre lá đơn sơ chỉ thờ 3 tượng Phật. Tượng thứ nhất là tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa, tượng thứ hai đứng là tượng Ca Diếp bên tay trái và tượng thứ ba đứng là tượng A NAN bên tay mặt. Hiện giờ CHÙA AM vẫn còn giữ nguyên vẹn như hồi mới cất, vách liếp, cột bằng cây tầm vông, lợp tôn, v.v... Tuy đã cũ rêu phong, ẩm mốc, cột xù xì và vách liếp đã mục nhưng chưa nát vẫn còn che mưa, che nắng được. Ngôi chùa bằng trúc tre làm sao giữ gìn bền lâu được. Cho nên Thầy Thông Lạc quyết tâm sẽ trùng tu CHÙA AM bằng gạch ngói như trước kia do ông thân thầy đã xây dựng. Từng cục gạch, từng viên đá, từng bao xi măng do công sức của riêng ông thân thầy dành dụm từng đồng từng cắc chớ không bao giờ kêu gọi một người phật tử nào đóng góp phụ với mình. Sự quyết tâm ấy ông thân thầy đã dựng nên ngôi CHÙA AM sạch đẹp và ngôi chùa này được duy trì trên 10 năm thì chiến tranh bùng nổ. Giặc Pháp đã dùng xe tăng tàn phá ngôi CHÙA AM, chỉ còn một đống gạch vụn.
Sau khi đất nước giải phóng giặc Pháp ra khỏi biên cương, thầy Thông Lạc là một tu sĩ nên một đồng cũng không có, nhờ gia đình cô TỪ NGUYỆN cúng dường cho thầy 20 đồng, lúc bấy giờ 20 đồng có giá trị rất lớn. Khi có tiền thầy Thông Lạc trở về bắt đầu cất lại CHÙA AM bằng tầm vông trúc tre, vì đó là những cây nhà lá vườn nên không tốn tiền mua. Ông thân thầy Thông Lạc qua phần nhưng lời di chúc giao lại việc trùng tu ngôi chùa cho thầy, nên lúc nào thầy Thông Lạc cũng nhớ lời di chúc đó:“Sau khi Thầy mất, Thầy chỉ tin nơi con, con là người đủ sức, đủ khả năng trùng tu lại ngôi chùa, con nhớ cố gắng đừng để phụ lòng mong mỏi của ông bà nơi chín suối”. Nhớ lời di chúc đó thầy Thông Lạc luôn luôn canh cánh bên lòng quyết tâm trùng tu lại ngôi chùa bằng gạch ngói để không phụ lòng mong đợi của ông thân thầy.
Việc thứ hai làtrùng tu tinh thần chánh pháp của Phật, thầy Thông Lạc viết sách đạo đức nhân bản – nhân quả và giảng dạy đúng những lời dạy của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI, còn những lời giảng dạy nào không đúng của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI thì Thầy vạch trần bộ mặt thật của nó để mọi người biết rõ nó là tà pháp ngoại đạo đã xen vào kinh sách Phật giáo. Thường các sư thầy không rõ những kinh sách ngoại đạo nên lấy đó giảng dạy cho phật tử. Cho nên việc vạch trần bộ mặt thật của kinh sách ngoại đạo là giúp cho phật tử hiểu rõ pháp nào đúng, pháp nào sai để quý phật tử tránh xa và không ủng hộ cúng dường, những sư thầy đang hành tà giáo ngoại đạo. Nhờ đó tà pháp không phát triển và vì vậy chánh pháp của Phật mới dựng lại và làm sáng chói con đường tu tập của Phật giáo.
Nhất là thầy Thông Lạc dạy đâu là chánh tín và đâu là tà tín. Chánh tín nghĩa là gì? Tà tín nghĩa là gì?
Chánh tín chỉ cho mọi người biết thực hành đời sống có đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và chúng sinh, luôn luôn giữ gìn tâm BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ bằng pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý để tâm luôn luôn ly dục ly bất thiện pháp. Nhờ đó mới thấy được tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Chính thấy được tâm như vậy mới là giải thoát của Phật giáo quý vị có biết không?
Tà tín có nghĩa là những phật tử mê tín chuyên cầu cúng, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, cúng sao, giải hạn, đốt tiền vàng mã, v.v... Những việc làm nhảm nhí vô ích như vậy thường làm hao tài tốn của của những phật tử. Vậy mà quý phật tử cứ nghe đâu làm vậy không chịu suy tư việc làm đó đúng hay sai.
Bởi số phật tử đông đảo trùng trùng điệp điệp đang theo Phật giáo mà chúng tôi đã chứng kiến những buổi lễ lớn của Phật giáo, phật tử về chùa đông như kiến cỏ, nhưng từ lâu bị nhồi nhét trong đầu những điều sai Phật pháp nên chỉ còn biết cúng bái, tụng kinh, niệm chú của kinh sách phát triển. Phật tử cho đó là việc làm đúng, cho đó là sự tu tập của mình theo Phật giáo. Bởi làm một việc sai, mù quáng, mê tín không đúng chánh pháp của Phật mà không biết. Thật là tội nghiệp bị ảnh hưởng Phật giáo mê tín ngu muội của Trung Quốc, cứ cho là xưa bày nay làm theo, thật là đáng thương.
Phật tử còn vô minh nhiều lắm vì quý thầy dạy sao họ làm theo như vậy, chớ họ đâu có dám nói quý sư thầy sai. Họ chỉ biết tin, biết làm nên sư thầy dạy gì họ cũng tin. Bởi vậy phần đông phật tử làm sao am tường lời Phật dạy nên thiếu trí tuệ, không cân nhắc, không chịu khó tư duy, cứ nghe sư thầy dạy đâu làm đấy, như những người mù rờ voi. Thật là đáng thương nhưng cũng rất tội nghiệp. Vì họ không sáng suốt nên mới để giáo pháp mê tín tràn lan khắp nước, lâu ngày không dứt bỏ nên nó đã trở thành một truyền thống của dân tộc.
Nếu ngay từ lúc đầu khi kinh sách Phật giáo Trung Quốc này mới truyền vào Việt Nam, mọi người ai cũng đồng lòng chặn đứng nó lại bằng cách không làm theo những điều tà giáo mê tín thì làm gì nó truyền vào đất nước chúng ta được, phải không thưa quý vị?
Trong thời đại khoa học, kiến thức của con người được nâng cao nhờ sự học rộng hiểu xa nên không dễ gì làm cho họ tin theo, duy chỉ có những người ít học mới biến mình thành những người mù quáng, dễ tin, dễ làm theo.
Tà tín là tin có cõi Cực Lạc Tây Phương, là tin có linh hồn người chết, là tin có thế giới siêu hình, là tin có tà ma, quỷ quái, là tin có địa ngục, ngạ quỷ, là tin có Thần Thánh, Tiên Phật, là tin có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Chúa Trời, là tin có Thập Ðịa Diêm Vương, Thủy phủ, Thủy tề, Long Vương, Hà Bá, Bà Thủy, v.v… Những điều tà tín này là mê tín. Những điều tà tín này không phải do lời dạy của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI mà do những lời dạy của các Tổ ngoại đạo Bà La Môn, Ðại Thừa, Thiền Tông. Các ngài đã biến Phật giáo thành một Phật giáo mê tín của Trung Quốc hoàn toàn chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, Lão giáo.
Nho giáo và Lão giáo là hai tôn giáo lớn của người Trung Quốc. Nho giáo do Khổng Tử chủ trương thuyết TAM CANG và NGŨ THƯỜNG, còn Lão giáo do Lão Tử chủ trương thuyết VÔ VI. Hai nhà đại hiền triết tư tưởng lớn này của Trung Quốc đã triển khai nền văn hóa đạo đức của người Trung Quốc, mà từ xưa đến nay người Trung Quốc vẫn một lòng tôn kính xem hai vị này như những bậc thầy của mọi người trong thiên hạ. Các nhà sư Phật giáo Trung Quốc chịu ảnh hưởng văn hóa tư tưởng triết học của Nho giáo nên từ sự hiểu biết đó đã chuyển thành nền văn hóa đạo đức Phật giáo Trung Quốc cho tốt đẹp hơn. Nhưng không ngờ chịu ảnh hưởng cúng tế của Nho giáo mà các nhà sư Phật giáo Trung Quốc lại biến nền văn hóa đạo đức Phật giáo Trung Quốc thành một nền văn hóa đạo đức Phật giáo mê tín. Dòng văn hóa đạo đức Phật giáo mê tín đó được các nhà sư đặt tên là Tịnh Ðộ Tông và biên soạn thêm những bộ kinh sách phát triển thường ca ngợi và khuyến khích tín đồ tu tập pháp môn niệm Phật A Di Ðà, vì pháp môn đó hợp với thời đại mạt pháp.
*

Lại nữa, có một số nhà sư Trung Quốc chịu ảnh hưởng văn hóa đạo đức tư tưởng của Lão Tử. Họ triển khai thành một Phật giáo Trung Quốc tuyệt vời hơn bất cứ một Phật giáo nào ở trong nước cũng như ở các nước ngoài. Nhưng không ngờ ảnh hưởng VÔ VI của Lão giáo mà các nhà sư Phật giáo Trung Quốc lại biến nền văn hóa đạo đức của Phật giáo Trung Quốc thành một nền văn hóa triết học TÁNH KHÔNG. Từ khi triết học tánh không ra đời đã đốn sạch những tư tưởng triết học khác trong nền văn hóa Trung Quốc. Với tư tưởng này các nhà sư Trung Quốc rất hãnh diện tự đặt cho nó cái tên là pháp môn Tối Thượng Thừa. Pháp môn Tối Thượng Thừa tức là Phật giáo Thiền Tông Trung Quốc bây giờ. Người am tường Phật giáo Trung Quốc thì thật là xót xa và đau buồn, do kiến giải của các nhà sư Trung Quốc thiếu sáng suốt đã làm mất gốc Phật giáo tại xứ này. Như vậy Phật giáo Trung Quốc chia làm hai dòng văn hóa tư tưởng:
Còn Phật giáo chánh tông thì không còn nữa, nên người Trung Quốc cho đến hiện giờ muốn hiểu Phật giáo chỉ nghiên cứu hai dòng tư tưởng này thôi.
Hai nền văn hóa đạo đức Phật giáo ấy lại được truyền sang qua Việt Nam, chư tăng Việt Nam tiếp thu mà không dám chỉnh sửa, cứ y khuôn mà truyền bá, mãi cho đến đời Trần Nhân Tông mới có thay đổi chút ít bằng sự pha trộn Thiền – Tịnh của Trung Quốc, rồi cho đó là Phật giáo thiền Tông Việt Nam.
Chúng tôi vạch ra đây không phải chỉ trích ai cả mà để cùng nhau đóng góùp ý kiến để chúng ta thấy cái sai cái đúng của Phật giáo Việt Nam hiện giờ.
Là người Việt Nam chúng ta hãy cùng chung nhau xây dựng một nền văn hóa đạo đức Phật giáo tinh ròng của người Việt Nam, chớ không vay mượn một Phật giáo của nước nào cả, chỉ dựa vào lời dạy nguyên thủy của đức Phật mà biên soạn và giảng dạy giúp cho mọi người hiểu về Phật giáo một cách rõ ràng, phân biệt được Phật giáo nào đúng và Phật giáo nào sai.
CHÙA AM đi vào con đường chánh Phật giáo nên không còn có khói hương mê tín, dị đoan, lạc hậu như CHÙA AM ngày xưa. Nhờ có lời dạy trên đây CHÙA AM không còn đi vào nếp cũ hướng dẫn tín đồ theo lối mòn của các sư thầy tổ xưa.
CHÙA AM ngày nay không tụng kinh, không làm ma chay siêu độ theo kiểu mê tín, mà làm ma chay theo tinh thần khoa học mang đầy đủ lòng biết ơn sâu xa của những người còn sống đối với những người thân đã mất“Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nên việc làm ma chay rất đơn giản, thiết thực cụ thể ít tốn kém. Ðám tang chỉ dạy cách thức ma chay theo tinh thần thực tế của Phật Giáo Việt Nam không chịu ảnh hưởng của một tôn giáo nước nào cả. Nhất là không theo tinh thần tư tưởng “Văn Công Thọ Mai” của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử Trung Quốc cúng bái, tế lễ, kèn trống rập rình, rồi lại còn đàn ca xướng hát theo giọng ê, a tụng niệm giọng cao giọng thấp của các tăng, ni và phật tử. Một đám tang là một sự mất mát, có gì vui đâu mà lại đàn ca trống phách. Thật là một việc làm sai hết sức sai sao mọi người không suy tư, nghĩ lại xem, làm như vậy có đúng không? Sao mọi người không nghĩ lại xem làm đám tang mà như làm một buổi lễ đăng quang hay ít cũng là một đám cúng đình. Có đúng như vậy không quý vị? Ðám tang có vui gì mà trống kèn đàn ca xướng hát rập rình, lại còn mướn thêm giàn nhạc Tây phương kèn trống inh ỏi làng trên xóm dưới đều hay biết. Sao người ta làm ma chay mà không chịu suy nghĩ, cứ bắt chước thấy ai làm sao mình làm vậy. Thời đại chúng ta không cho phép làm một điều thiếu suy nghĩ. Khi làm một điều gì thì cần phải suy tư cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới làm:
- Thứ hai người có trí họ cho chúng ta không phải là kẻ hủ lậu, dốt nát, ngu si, chỉ biết bắt chước làm theo người xưa.
- Thứ ba có trí sáng suốt phân biệt làm ma chay như thế nào đúng và như thế nào sai. Ðúng có lợi ích gì? Và sai có hại gì?
Làm ma chay theo đúng tinh thần Phật giáo thì chúng ta hãy nghiên cứu lại tài liệu cách tẩm liệm làm ma chay của CHÙA AM hướng dẫn, vì cách thức làm ma chay của CHÙA AM là làm theo những lời dạy của đức Phật. Làm ma chay theo lời dạy của đức Phật trong tinh thần dân tộc Việt Nam là tránh xa những hủ tục, mê tín, lạc hậu, đó là làm giảm bớt những sự hao tốn nhảm nhí rất nhiều. Còn làm một đám tang theo kinh sách phát triển thì phải chịu hao tốn tiền bạc cúng dường trai tăng, vì chư tăng phát triển thường hay bày vẽ theo kiến giải mê tín cúng kiếng, tụng kinh cầu siêu quá nhiều. Tính từ ngày chết cho đến ngày làm tuần mãn tang phải hao tốn hằng triệu bạc cho các thầy ngồi trong mát hưởng bát vàng bằng tiền của mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ làm ra. Người phật tử không sáng suốt không dựa vào những lời dạy của đức Phật trong kinh sách nguyên thủy mà cứ nghe theo các thầy phát triển đã làm hao tốn tiền của mà còn bị người ta cho rằng là những hạng người mê tín, lạc hậu, ngu si.
Ðã trải qua hơn 25 thế kỷ dài đằng đẳng, hôm nay lớp đào tạo bậc A La Hán đã thành hình. Là một tu sinh của lớp, con kính ghi đôi dòng cảm nghĩ.
Theo con được biết, trước cái nhìn thấu suốt của vị Minh Sư - Trưởng lão Thích Thông Lạc - sau khi đắc đạo có đủ Tam Minh, Người dùng Thiên nhãn minh hướng về cuộc đời tu hành của đức Phật Thích Ca Mâu Ni để đối chiếu với sự chứng nghiệm của Người, thì thấy kết quả tu chứng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và của Người không sai khác:
-Ðức Phật đã tu chứng đạt bốn thiền, làm chủ sự sống chết, thì Người cũng tu chứng đạt bốn thiền, làm chủ sự sống chết.
Sau khi chứng đạt chân lí, Người nhìn thấy chúng sanh sống không có đạo đức nhân bản – nhân quả nên thường làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, Người bỏ ý định ra đi tự tại vào năm 1980. Người dẹp sạch cái nhà sàn làm nơi chất củi đã chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đi ấy (Ðây là lời của anh Trưởng Công An ấp Gia Lâm kể lại cho con nghe).
Qua 25 năm nương vào làn sóng giáo pháp của Phật giáo Ðại Thừa để dìu dắt “CHÚNG SANH NAN ÐỘ” này, Người luôn là ngọn hải đăng soi sáng về gương hạnh đạo đức và giới luật, Người luôn thẳng thắn chỉ dạy cặn kẻ chỗ tu sai lạc vào thiền tưởng, thiền ức chế tâm. Khi ấy, Người nói rất mạnh như tình một người mẹ quá thương con, thấy những đứa con mình sắp lao xe xuống hố thẳm tưởng giải, sắp ngã nhào xuống vực sâu của ngũ ấm ma, Người mẹ ấy thét lên: “Hãy dừng lại! Dừng lại các con ơi!”. Thế rồi một sự thật quá phủ phàng, bao khổ đau, bao gian nan đã giày xéo lên tấm thân gầy guộc của Người. Và còn tệ hơn nữa là bao lời sỉ nhục, mạt sát, mạ lị của những người đại diện cho giáo pháp phát triển. Chẳng khác nào như của những người đại diện cho giáo pháp của Bà La Môn đã từng sỉ nhục, mạt sát, mạ lị và còn cho người hại Phật trong thời xưa vậy. Chúng ta thử suy nghĩ một điều là, nếu đức Phật không có tuệ Tam Minh thì Phật đâu có nói: “TRONG NƯỚC CÓ TRÙNG”. Mà nếu Thầy Chơn Như không có tuệ Tam Minh thì đâu có trả lời với quý phật tử rằng: “KHÔNG CÓ NGÀY TẬN THẾ CỦA NĂM 2000” hay “KHÔNG CÓ HỘI LONG VÂN, LONG HOA GÌ HẾT – MÀ CŨNG KHÔNG CÓ PHẬT DI LẶC RA ÐỜI VÀO NĂM 2000!” (Sau ngày ra thất năm 1980 các phật tử gần xa thường về hỏi thăm Thầy về đề tài ấy). Những lời nói xác định của Phật, của Thầy rất nhẹ nhàng mà mang tính chất thực tế giá trị của thời đại rất cao được con người và khoa học đều công nhận.
Chỉ đơn cử vài câu trả lời trên, thì con thấy rằng: Ðức Phật và Thầy đã nhìn thấu suốt tâm can của tất cả chúng sanh như nhìn nét chỉ trong lòng bàn tay vậy. Và đồng thời các Ngài thấy rất rõ những người có tâm xấu muốn hại Phật, hại Thầy, muốn chống lại chánh pháp ấy như con thiêu thân bay vào lửa nhân quả. Song với lòng từ bi vô bờ bến và hạnh nguyện của các Ngài rất vĩ đại, tâm bất động của các Ngài vô cùng kiên cố. Có vậy mới xứng đáng là bậc siêu nhân, có vậy mới được mọi người mến mộ và sùng kính muôn đời. Ðặc biệt là giáo pháp của các Ngài luôn luôn ban bố một cách bình đẳng đến muôn người, không phân biệt có tôn giáo hay không tôn giáo, không phân biệt người thương kẻ ghét nào cả.
Ngày xưa đức Phật đã thiết lập nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người. Ðây là một giáo lý cốt lõi trong đạo Phật, nhưng nó đã bị lớp tư tưởng mê tín, dị đoan bao bọc, phủ dầy hơn 2500 năm nay. Do vậy con người luôn sống trong thù hận, ác trược, đầy khổ đau. Chính vì thế, minh Sư Thích Thông Lạc không quản công nhọc nhằn, không chùn bước trước khó khăn, Người xây dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả ấy hầu mang lại một hướng đi đúng để nguồn hạnh phúc của loài người trên hành tinh này không bị mai một. Từ nền tảng đạo đức ấy, con người sẽ luôn phát huy tính thiện của mình và giúp cho muôn người, muôn loài vật khác không còn khổ đau nữa. Và cũng nhờ nền tảng đạo đức nhân bản - nhân quả ấy, con người sẽ được tiến xa hơn trên pháp môn “TAM VÔ LẬU HỌC: GIỚI, ÐỊNH, TUỆ”, để từng bước luyện rèn làm chủ được bốn sự khổ: sinh, già, bệnh, chết như đức Phật và như Thầy đã làm được. Ðây là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật và cũng là mục đích yêu cầu của lớp đào tạo A La Hán hôm nay vậy.
Ngay trong nội dung của lớp Chánh Kiến, Thầy đã khơi sáng tầm nhìn của chúng con, giúp chúng con không còn sống trong ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng nữa, không còn yếu đuối mê tín cầu tha lực nữa. Nếu muốn thân không bệnh đau, tâm không phiền toái, bất toại nguyện và muốn thành công trên mọi lãnh vực mà chỉ cầu xin và xem ngày giờ tốt thì dù kết quả ấy có được cũng chỉ là người giải quyết chỉ phần ngọn mà thôi, không bền vững. Bởi vì sự cầu xin và xem ngày tốt kia là chúng ta đã tránh né cái quả xấu mà ta đã tạo. Ðến một lúc nào đó nghiệm lại sẽ thấy bệnh đau vẫn đầy dẫy, phiền não lo rầu cũng không hết mà như chồng chất thêm, cả sự thất bại ê chề từ việc này đến việc khác cũng kéo theo bao khổ não suốt cuộc đời tới chết. Do thiếu đạo đức mà mọi người quen nói thiếu đức.
Qua lời dạy của Thầy chúng con được biết: Muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc thật sự bền lâu của thân và tâm, cả sự thành công trên mọi lãnh vực thì điều tiên quyết là nên có niềm tin sâu về nhân quả. Từ đó con người sẽ sáng suốt hơn, chủ động hơn về sự thành bại, tốt xấu đều do chính mình có khả năng làm nên tất cả. Tất nhiên là ai ai cũng muốn đạt nhiều kết quả tốt đẹp về sức khỏe, về tinh thần, về công danh thì hãy tạo nhiều nhân tốt như không làm cho người và vật bị tổn thương, bị chết chóc; không làm cho người và vật bị đau khổ; không tranh giành phá hoại người khác. Sự thành công trên đường đời hay đường đạo sẽ đạt được bền lâu là do mọi người biết tự lực giải quyết ngay “PHẦN GỐC ÐẠO ÐỨC”. Nên ông bà xưa thường nói: “CÓ ÐỨC KHÔNG SỨC MÀ ĂN” là vậy. Và phần đạo đức gốc ấy là nền đạo đức nhân bản - nhân quả của muôn người.
Sự thật nhờ có Thầy chúng con mới rõ hơn: đạo đức nhân bản - nhân quả là những đạo đức gốc, đạo đức căn bản nhất của con người. Nó có một con đường đi rõ rệt và xuất phát từ ba nơi thân, khẩu, ý của con người đồng thời nó được diễn biến như sau:
Thamtức là lòng tham muốn,Sântức là lòng sân hận,Sitức là tâm mê mờ không hiểu đúng thường mê tíndị đoan.
Nóidối, nói lời không thật,Nóithêu dệt, nói phóng đại, nói thêm bớt,Nóilật lọng; nói trớ qua trớ lại, chối quanh co,Nóilời hung dữ; lời chửi mắng, lời hăm dọa.
Nếu không có sự giảng giải của Thầy chúng con chỉ hiểu nhân quả một cách đại khái và chung chung như: “QUẢ BÁO NHÃN TIỀN”, “Ở HIỀN GẶP LÀNH” hay “GIEO GIÓ GẶT BÃO”. Hoặc có khi cũng biết rằng “NHÂN NÀO QUẢ NẤY” mà con chỉ biết một nhân cho ra một quả mà thôi. Ví dụ: Ðánh người, người đánh lại, rồi hết; hay “cười người hôm trước hôm sau người cười”. Song hôm nay, được Thầy mở rộng tầm nhìn của chúng con, hướng chánh kiến của chúng con được thấu hiểu tường tận hơn: Từ nhân quả của loài thảo mộc mà liên hệ đến nhân quả của loài người đều giống như thế. Ðiều này khiến cho chúng con có một niềm tin tuyệt đối với cái nhìn của một vị Minh Sư đạt đạo. Và với niềm tin tuyệt đối này, nhiều tu sinh nỗ lực tu tập sẽ đến nơi đến chốn và sẽ cùng Thầy nhìn rõ mồn một nhân quả của chúng sanh bằng tuệ Tam Minh như vậy.
Lạ quá! Hay quá! Thầy cung cấp cho chúng con nhiều kiến thức mới học qua lớp này. Như “MỘT NHÂN SINH RA NHIỀU QUẢ”. Nếu đối với loài thảo mộc, cây trái thì dễ nhận biết rồi. Thế mà Thầy tuyên bố: “MỘT NGƯỜI SINH RA NHIỀU NGƯỜI”. Bởi vì hành động thiện ác của con người tạo thành nhiều từ trường, phóng xuất vào không gian, kết hợp với những niềm vui hay nỗi khổ mới tạo ra những con người mới và con vật mới. Không phải con người chết đi mới tạo con người mới, con vật mới. Và cái cận tử nghiệp mới là cái nghiệp tạo con người sau cùng.
Do vậy mà người biết tu luôn luôn bằng lòng mọi quả đã tạo, đồng thời sẵn sàng tăng trưởng nhân thiện mới, cho đến toàn thiện, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự thì cận tử nghiệp lại là một trạng thái Niết Bàn – không còn tương ưng với tâm chúng sanh nên chấm dứt đường sanh tử luân hồi.
Chỉ mới đề tài nhân quả (con tóm lược) mà Thầy đã tỉ mỉ dẫn dắt cho chúng con đi từ nền tảng đạo đức gốc NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ. Luôn ý tứ, dè dặt để tăng trưởng từng niệm thiện của thân khẩu ý thì lại được trở thành một nền móng cho mọi sự thành công ở đời cũng như trong đạo. Thật là thiết thực vô cùng!
Và rồi Thầy luôn nhắc nhở: “Hãy dùng Chánh kiến để nhìn mọi sự việc, mọi đối tượng, mọi hiện tượng bằng tri kiến nhân quả để giải tỏa tâm mình” thì lại còn là một điều bổ ích hơn nữa. Nhờ vậy mà tâm luôn an vui, bằng lòng mọi quả cũ đồng thời tạo nhân tốt (tăng trưởng thiện) để có quả tốt trong tương lai.
Trong lớp học này có nhiều trình độ khác nhau về Phật học cũng như về kiến thức phổ thông. Song hầu hết ai ai cũng tiếp thu tốt những lời dạy ân cần cặn kẽ mà dễ hiểu của Thầy ban bố cho. Chỉ còn duy nhất nỗ lực thực hành thì đường về xứ Phật sẽ được thu ngắn lại, không còn mờ mịt xa xăm nữa. Nhờ Chánh Kiến mà các “TÂM VIÊN” cũng được dây xích quấn vô cổ và “Ý MÔ cũng như có được dây cương với người điều khiển kinh nghiệm. Khi người ấy vung chiếc roi “TRI KIẾN NHÂN QUẢ” lên thì lập tức tâm ý kia ngoan ngoãn bình thản hơn, bất động hơn trước các ác pháp và các cảm thọ. Ví dụ thỉnh thoảng có người rên rỉ về tâm chướng của họ, có khi sách động con, xúi dục con tham gia những điều không tốt. Nhớ lời Thầy con luôn dùng đôi mắt tri kiến nhân quả thì tâm con được giải tỏa ngay, không bị lôi cuốn, rồi con khuyên họ nên trình rõ và nhờ Thầy giải quyết cho. Thật ra, Thầy đã dạy cho phương pháp để xả tâm bằng “NHÌN MỌI SỰ QUA NHÂN QUẢ” thế mà không nỗ lực thực hành, để phá hạnh độc cư, làm động mọi người thì chùm nhân quả kia ảnh hưởng, cả lớp bị đuổi hết, mọi người khóc ròng và xin sám hối với Thầy mấy ngày liền. Ðây cũng là một sự kiện đáng ghi vào lịch sử của lớp học này.
Có vậy con mới thấy rõ hơn việc tu tập trước tiên là Thầy dạy xả tâm: PHẢI LUÔN LUÔN NHẪN NHỤC – TÙY THUẬN – BẰNG LÒNG ở mức độ cao. Và đó là hạnh độc cư vậy. Muốn trở thành Thánh Nhân thì trước tiên phải gạn cho hết, xả cho hết các tâm ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm, chấp ta, ngã mạn... để cùng nương với nhau mà tiến tu. Những lời sám hối với Thầy hôm nay cũng là lời cam kết, lời hứa quyết tâm lo tu tập đúng, không phá hạnh độc cư nữa. Từ nay nếu tâm không xả được niệm gì thì chúng con sẽ cố gắng tùy đối tượng của tâm mà dùng tri kiến về “NHÂN QUẢ” hay về “CÁC PHÁP VÔ THƯỜNG”, thân vô thường hay thân bất tịnh, hoặc tùy đối tượng của tâm mà “QUÁN THÂN BẤT TỊNH” hay “QUÁN THỰC PHẨM BẤT TỊNH”. Luôn luôn nhớ và thực hành “THÂN LÀ VÔ NGÃ – KHÔNG PHẢI LÀ TA, KHÔNG PHẢI CỦA TA, KHÔNG PHẢI BẢN NGÃ CỦA TA” thì sẽ giải tỏa được mọi vấn đề của tâm. Ðặc biệt là áp dụng “TỨ BẤT HOẠI TỊNH”, con tác ý: “CON NGUYỆN TÂM CON NHƯ PHẬT – CON NGUYỆN TÂM CON NHƯ TÂM THẦY” thì các niệm linh tinh, tâm hẹp hòi thấp hèn kia không ngự trị được nữa, nó sẽ cút mất. Thực tế chúng con còn khóc nhiều quá tức là chưa thâm nhập “CÁC PHÁP LÀ VÔ THƯỜNG”. Mới ghi nhận lý thuyết thôi. Song dù sao Thầy cũng đã trang bị cho nhiều chiếc áo giáp lắm rồi, mỗi phương cách quán là một chiếc áo giáp để xông pha nơi trận mạc. Chúng con sẽ cố gắng phòng hộ hơn, không để bị thương tích nữa.
Một lần làm Thầy buồn là chắc chúng con sẽ bị tổn phước, tổn thọ lắm đây! Vì với tất cả tình thương bao la vô tận Thầy không quản công khó nhọc; vừa giảng dạy, vừa xem bài, vừa kiểm tra – trả lời các câu hỏi khi tu sinh trình sự tu; vừa tiếp khách và giảng pháp riêng khi cần thiết, lại vừa viết sách – in ấn – pho to, v.v… Thật con không ngờ nổi, mỗi ngày Thầy ăn (ngọ) một bữa, chỉ có vài muỗng cơm mà làm việc trên 24/24, hết ngày này sang ngày khác như vậy! Ðiều này rõ ràng là Thầy sống và làm việc bằng một lực thanh tịnh phi thường. Các anh của con lên hay nhận xét: “Ủa! Thầy đã gần 80 rồi mà tiếng nói của Thầy sao rõ ràng và khỏe quá”. Chúng con cố gắng tu tập đúng để noi gương thân giáo của Thầy như vậy.
Bên cạnh những chiếc áo giáp kia, Thầy luôn rèn luyện chúng con nhiều thao tác để chiến đấu với thân bệnh, tâm bệnh. Với những chiến thuật chiến lược rất chặt chẽ, kiên cố, Thầy căn dặn kỹ lưỡng để biết sử dụng đội hình, đội ngũ sao cho phù hợp với chiến trận ấy. Lúc nào thì tu tập “CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC - NHIẾP TÂM AN TRÚ TÂM”. Lúc nào thì tu tập “THÂN HÀNH NIỆM” mà còn phải áp dụng “ÐỊNH NIỆM HƠI THỞ”, cũng như pháp “NHƯ LÝ TÁC Ý” luôn luôn phải là đội quân tiên phong đi đầu trong các trận. Và lúc nào thì mới tu tập “TỨ NIỆM XỨ”.
Phải nói rằng chưa thấy lớp học nào phức tạp đủ mọi trình độ như lớp đào tạo tâm vô lậu này. Từ tuổi tác đến hình tướng, đặc tướng, trình độ đều rất chênh lệnh. Thế mà Thầy nhẹ nhàng, linh động rất chính xác khi áp dụng từ thời khóa đến phương pháp tu tập phù hợp cho từng người một.
Những tên giặc lợi hại như hôn trầm, thùy miên, ái kiết sử, tâm tình cảm, dục thèm ăn, v.v.. Thầy luôn luôn nhắc nhở phải cảnh giác với những đòn tâm lý chiến. Khi tâm họ chướng họ thường phá hạnh độc cư, họ đến với mọi người rỉ tai, rù rì làm cho người khác cũng bận tâm, rộn ràng mất đoàn kết. Những lúc như vậy là đã phản lại lời dạy cao quý của Thầy thì phải coi chừng bị nhân quả cuốn trôi đi! Thật là một vị Thầy bao quát lớp rất chặt chẽ, không bỏ rơi một người nào. Thầy không thu vào một lệ phí nào và cũng không màng chút danh lợi gì cả. Thầy chỉ mong sao các tu sinh làm chủ được bốn sự đau khổ sinh, già, bệnh, chết của mình. Thầy chỉ đến lớp với chiếc áo dài nâu bạc màu và một đôi dép mũ thường. Thật là một vị Thầy giản dị nhưng lại thanh thoát làm sao!
Hình ảnh này có còn mãi chăng? Nếu chúng con không cấp tốc giữ hạnh độc cư để tâm quay vô, áp dụng mọi sự tu tập cho đúng để xả tâm cho được, thì làm sao có được năm nén hương tâm kịp dâng lên bậc Thầy đáng tôn kính? Chắc hẳn là tu sinh của lớp học này ai ai cũng biết rõ năm nén hương ấy là: Giới hương - Ðịnh hương - Tuệ hương – Giải thoát hương – Tri Kiến giải thoát hương. Con hằng mong sao từng người, từng người một của lớp học đều năng nổ dâng lên Thầy những sự tu tập đúng và thật đủ chất lượng.
Con xin thay mặt tất cả các tu sinh của Tu Viện Chơn Như thành kính tri ơn Thầy, tri ơn cô Út; cùng kính gửi đến Chính quyền các cấp ở địa phương cũng như quý phật tử ở Thành phố Hồ Chí Minh lời ân cần kính chúc sức khỏe, lời trân trọng biết ơn sâu sắc và lời quyết tâm cố gắng của toàn thể tu sinh trên lĩnh vực tu tập làm chủ sự sống chết của mình.
Nhân dịp năm mới chúng con xin thành kính chúc Thầy pháp thể khinh an để dìu dắt chúng con đến bờ giải thoát. Con cũng xin thành kính chúc toàn thể tu sinh của Tu Viện một năm mới tinh tấn tu hành kết quả viên mãn. Và cuối cùng, con xin thành kính chúc Chính quyền các cấp địa phương, cô Út và quý Phật tử thân yêu một năm mới dồi dào sức khỏe và thành công tốt đẹp trên mọi lãnh vực.