Phật Giáo Gia Lai: Tóm Tắt Lịch Sử Đức Phật, Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

(Tríchdẫn: Tạp A Hàm quyển 3 Kinh 1077 từ trang 661 đến 666.Tăng Nhất A Hàm quyển 1từ trang 460 đến 500, quyển 2 trang 495. Trường A Hàm quyển 1 từ trang 607 đến628. Trung A Hàm quyển 3 trang 11, 12, 13, từ trang 557 đến 565, quyển 4 từtrang 518 đến 535, từ trang 667 đến 680. Phật Học Phổ Thông quyển 1 từ tr. 33đến 51, Đức Phật & Phật Pháp từ tr. 23 đến 273)

Bạn đang xem: Phật Giáo Gia Lai: Tóm Tắt Lịch Sử Đức Phật, Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

I )-Từ Đản Sinh tới Thành Đạo:

1)- Đảnsinh

 Năm623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âmlịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ. Nay thuộc nước Tích Lan (Nepal) ởgần chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu)khoảng 15 cây số (gần 10 dặm Anh). Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya) của Vua Tịnh Phạn(Suddhodana) thuộc qúy tộc Thích Ca (Sakya) họ Cù Đàm (Gotama) hạ sinh mộtHoàng tử.

 Saukhi sinh được bảy ngày, Hoàng hậu băng hà, sinh lên cõi trời Đâu Suất, Vua TịnhPhạn giao Hoàng Tử cho em gái ruột của Hoàng hậu là Ma Ha Bà Xà Ba Đề (MahãPajãpati), kế mẫu nuôi dưỡng chăm sóc.

 TinHoàng tử chào đời được loan truyền trong nhân gian, thần dân vui mừng, Vua mờimột số đạo sĩ đến coi tướng, các đạo sĩ đều nói Hoàng tử có 32 tướng tốt, trênđời chưa thấy ai có; nếu sau này làm vua sẽ là một Hoàng Đế nhân đức anh minh,còn nếu xuất gia học đạo sẽ là bậc đại Thánh, một đại vĩ nhân. Vì vậy Vua đặttên là Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) có nghĩa là toại nguyện, Vua cũng phong cho SĩĐạt Ta là con trưởng sẽ nối ngôi vua sau này, nên gọi là Thái tử Sĩ Đạt Ta.

2)- Tuổiniên thiếu:

 Thái tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngô tuấn tú, tài năngphát triển vượt bực, Thái tử có một sức khoẻ cường tráng, một trí óc thông minhxuất chúng, từ văn đến võ, các trai tráng trong hoàng tộc không ai sánh kịp, họcthầy nào cũng chỉ trong một thời gian ngắn là học hết quyền thuật chữ nghĩa củathầy. Mặc dù tài sức hơn người, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra kiêu ngạokhinh người, trái lại có một thái độ nhã nhặn, thương người thương vật, vô tưbình đẳng, do đó Thái tử được Vua cha thương yêu qúy mến chiều chuộng; nhữngngười chung quanh mến trọng nể vì.

3)- LễHạ Điền:

 Mộthôm, nhân ngày lễ Hạ Điền (lễ bắt đầu làm ruộng của nhà nông trong một năm) vàongày đầu xuân, Thái tử theo Vua cha ra đồng. Mọi người vui vẻ với buổi lễ trongcảnh gió xuân nắng ấm hoa lá tốt tươi, muôn chim hót vang trong cảnh êm đẹpthái bình; trong khi mọi người mải vui với buổi lễ như thế, Thái tử ngồi mộtmình bắt chéo hai chân như người ngồi thiền dưới bóng cây. Thái tử nghĩ rằngnhững cảnh đẹp, chứ thực ra không phải thế, như trâu bò khổ cực kéo cày, ngườinông dân phải làm việc cực khổ, chân lấm tay bùn để có cơm ăn áo mặc. Thái tửngồi một mình suy nghĩ trầm tư như thế rồi vào định tâm . . .

4)-Thành hôn:

 Thấm thoắt Thái tử đã 16 tuổi, các việc học hành tập luyện đều chu toànđầy đủ, có vóc dáng của người hai chục tuổi, lại khôi ngô tuấn tú. Vua TịnhPhạn muốn con mình sẽ nối ngôi sau này nên ép Thái tử thành hôn với Công chúaDa Du Đà La (Yasodhara) đẹp đẽ nết na chu toàn cùng tuổi. Vua cho lập cung điệnbốn mùa thay đổi, chọn các mỹ nữ trẻ đẹp hầu hạ Thái tử; chung quanh cung điệnlà ao hồ, vườn cây luôn đẹp đẽ xanh tươi, hoa lá rực rỡ như cảnh thần tiên. Đờisống vương giả thật đầy đủ, cao lương mỹ vị, đàn ca múa hát, ngày đêm có ngườiluân phiên chầu chực hầu hạ, lên xe xuống ngựa trong hoàng thành rộng lớn.

 Cuộc đời nhung lụa sung sướng với vợ đẹp hiền ngoan như thế đã trên mườinăm, mọi người tưởng rằng Thái tử sẽ tiếp tục sống mãi như thế tới ngày Vua chatruyền ngôi để trì vì đất nước. Rồi Công Chúa sinh con trai tên La Hầu La, VuaTịnh Phạn càng thêm vui mừng, vì có thêm sự ràng buộc Thái tử hơn nữa. Mặc dùsống đời sung sướng, vợ đẹp, con ngoan, Thái tử vẫn thấy trong lòng nặng trĩunỗi băn khoăn thắc mắc đời sống thật sự bên ngoài hoàng thành.

5)-Nhận rõ cảnh khổ:

 Mộthôm, Thái tử xin Vua cha cho người hướng dẫn đi dạo ra ngoài cửa thành ngắmcảnh, ra đến cửa Đông, Ngài thấy một ông già đầu bạc trắng, lưng còng, răngrụng, lần bước đi một cách khó khăn; đến cửa Nam, Ngài thấy một người nằm coquắp trên cỏ đang kêu la đau đớn, hỏi thăm được biết người này đang bị bệnh; đếncửa Tây, Ngài thấy một người chết nằm bên đường. Thấy ba cảnh tang thương ấy,Thái tử nhận rõ bộ mặt thật của cuộc đời là khổ, những cảnh xa hoa trong hoàngcung chỉ là giả dối; Ngài muốn tìm cách giải quyết làm sao để cứu chúng sanhkhỏi khổ đau, bệnh, chết, nhưng Ngài chưa biết phải làm gì, nên trong lòng Ngàinặng nề hơn.

 Mấyngày sau, Thái tử lại xin đi dạo chơi, lần này ra cửa Bắc, Ngài thấy một ngườingồi kết già dưới gốc cây, thản nhiên không để ý các người qua lại; thấy vậy,Ngài có một sự cảm mến với vị ấy, và hé nảy sinh con đường cứu bệnh khổ giàchết trong tâm tư, Ngài liền trở về cung thưa với Vua cha xin xuất gia học đạo,nhưng bị từ khước. Thái tử trình Vua bốn sự việc nếu Vua giải quyết được, Ngàisẽ bỏ việc học đạo, đó là:

1- Làmsao mọi người trẻ mãi không già,

2- Làmsao mọi người khỏe mãi không bệnh,

3- Làmsao mọi người sống mãi không chết,

4- Làmsao mọi người hết khổ.

 Vuanghe Ngài hỏi như thế, buồn rầu không giải quyết được, và nói: “Những việc đólà thường ở đời, đương nhiên phải già, bệnh, khổ, chết, không có cách nào giảiquyết được, đành chịu mà thôi”.

6)-Xuất gia tìm đạo:

 Lúcnày, Vua lại tìm đủ cách để giữ chân Thái tử, nhưng từ khi thấy bốn cảnh ở bốncửa thành, Ngài đã tìm ra được giải đáp: “Ở đời là khổ, tất cả chỉ là tạm bợ,ngay cả cái thân ta mai này cũng sẽ vào cát bụi. Ta phải tìm chân lý để cứumình và cứu tất cả chúng sinh”. Ngài đã nhất quyết trong lòng con đường tìmchân lý giải thoát. Cung vàng điện ngọc, địa vị giàu sang, vợ đẹp con ngoan,sống sung sướng v.v…. không thể sánh với sự giải thoát to lớn và cứu độ chúngsanh khỏi khổ đau.

 Trong một đêm khuya, mọi người đương giấc ngủ say sưa, Thái tử Sĩ Đạt Tanhìn vợ con đang an giấc, rồi cùng với người giữ ngựa lặng lẽ rời khỏi hoàngthành trong đêm tối. Lúc đó Ngài 29 tuổi, tuổi tráng niên cường lực, dứt bỏ hếtđể ra đi tìm đạo với hai bàn tay trắng, để sống một cuộc đời chưa biết sẽ rasao.

 Sáng hôm sau, khi đã vượt qua sông Anoma (Neranjara), Ngài dừng chântrên bãi cát, dùng thanh kiếm sắc bén tự cạo râu tóc xong trao áo mão (mũ) kiếmcho người giữ ngựa đem trở về trình Vua; Ngài khoác vào mình tấm vải vàng camlàm áo, tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận mọi sự thiếu thốn vật chất. Từmột người sống trong nhung lụa giàu sang quyền qúy, bỗng nhiên trở thành ngườiđi lang thang trong nóng nực, lạnh lẽo, như người bất định trong sương gió. Đầuđội trời, chận đạp đất, không giày dép mũ nón, chỉ một mảnh vải che thân, khôngnhà không cửa. Đạo sĩ Cù Đàm lấy bóng cây hang đá là nhà để tránh nắng che mưa,trú dông bão tố, mang bát đi khất thực để sống v.v…

 Ngài tìm đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, Ngài học và hành, đạtnhững gì đạo sĩ ấy đạt; Đạo sĩ Alarama Kalama mời Ngài cộng tác dạy đám đệ tử,nhưng Ngài từ chối vì không thỏa mãnnhững gì đã đạt được. Đạo sĩ Cù Đàm rời vị ấy tìm đến một vị thứ hai, đạo sĩUddaka Ramaputta, Ngài học và cũng chứng những gì vị ấy chứng; vị thứ hainhường cho đạo sĩ Cù Đàm làm đạo sư hướng dẫn các đạo sĩ ở đó, nhưng sự chứngkhông giải quyết được những điều mà Ngài mong muốn, chưa phải là chân lý, chưaphải là Niết Bàn tối thượng, do đó Ngài lại ra đi.

 

7)- TuKhổ Hạnh 

 Đạosĩ Cù Đàm đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, lúcấy có đạo sĩ Kiều Trần Như là người trẻ nhất trong số đạo sĩ được Vua Tịnh Phạnmời xưa kia khi mới sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Ông nghe tin Thái tử đã xuất giahọc đạo, nên dẫn bốn người đồng tu tìm đến gặp Ngài để cùng tu.

 Thời bấy giờ, nhiều người có quan niệm: “Chỉ có tu khổ hạnh mới giảithoát được”, nên ông Kiều Trần Như đã thuyết phục Ngài nhập chung với năm ngườicùng tu khổ hạnh. Do đó đạo sĩ Cù Đàm đã khép mình để cùng tu trong thời giandài trên năm năm khổ hạnh.

 Từmột thân hình cường tráng khỏe mạnh dần dần cho đến một thân hình chỉ còn dabọc xương, dùng vô số phương tiện của khổ hạnh để tu, Ngài chỉ ăn rau cỏ đểthiền, nhịn thở để thiền, chỉ ăn một vài hạt đậu và một ít nước mỗi ngày đểthiền v.v…

 Thân hình đạo sĩ Cù Đàm trở nên gầy còm đến nỗi xương bàn tọa ngồi nhưmóng con lừa, xương sống như xâu chuỗi hột, lưng còng xuống, xương sườn phơi ratựa như sườn nhà bị đổ, hai mắt hõm vào như sao dưới đáy giếng sâu thẳm. Khi sờda bụng lại đụng xương sống, đi lại té tới ngã lui, Ngài cứ phải đập nhè nhẹvào thân làm cho tỉnh táo, thì lông từ da không còn sức bám rơi xuống lả tả; nướcda trước kia hồng hào tươi mát, lúc đó chỉ còn thấy là màu sạm đen như da ngườichết!

Xem thêm: xây dựng và phát triển nền văn hoá việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

 Mặcdù khổ hành đến cùng cực như thế, mặc dù không ai tinh tấn bằng đạo sĩ Cù Đàm,các đạo sĩ vẫn cho là cần phải tiếp tục khổ hạnh để đạt chân lý; thấy rõ ràngsau khi trải qua thời gian dài khổ hạnh như thế, cái chết đã gần kề, đạo qủachân lý chẳng thấy đâu, trí thức suy giảm, tinh thần mệt mỏi, Ngài quyết địnhdứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh. Vì cần có một thân hình khỏe mạnh, một trí ócsáng suốt để suy gẫm đạt chân lý, nên Ngài bắt đầu dùng vật thực thô sơ trởlại.

8)- TuTrung Đạo 

 Quyết định từ bỏ lối sống khổ hạnh, nhưng Ngài cũng không quay lại lốisống lợi dưỡng, mà vạch ra đường lối tu Trung đạo, Ngài biết rằng tu bằng đườngTrung đạo sẽ tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành định đưa đến trí,sẽ đưa đến giác ngộ.

 Nămvị đạo sĩ đồng tu thấy thế liền chê trách: “Đạo sĩ Cù Đàm không đủ kiên nhẫn”,họ liền bỏ đi; không vì thế mà thối chí ngã lòng, một mình Ngài trong chốn rừngsâu tu tập. 

 Bấy giờ, đạo sĩ Cù Đàm nghĩ rằng: “Ta đã đitìm hết các nơi, không có một ai đủ khả năng dẫn dắt ta thành tựu mục tiêu màta mong muốn, vì chưa ai ra khỏi sự vô minh”. Ngài bèn đi đến vùng ngoại thànhVương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, nơi có dòng sông trong mát, cây cốixanh thẳm, hoa lá tốt tươi. Đi đến dưới gốc cây Bồ Đề lấy cỏ làm nệm ngồi thiềnđịnh, Ngài thề nguyện rằng: “Nếu không đạt chân lý dù thịt nát xương tan tacũng không rời khỏi chỗ này”. Ngài đã liên tiếp trải qua nhiều gian nan thửthách về nội tâm tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, rồi sau lại phải chiến đấu vớingoại cảnh Thiên ma dùng đủ mọi tà pháp hòng cản trở Ngài việc thiền định; rútcục Ngài chiến thắng cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được yên ổn trong thiềnđịnh.

9)-Thành Đạo:

 Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài chứng “Túc mệnhminh”, thấy rõ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trămđời, nghìn đời; sinh chỗ này, tên là gì, cuộc sống ra sao, chết sinh vào đâuv.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm lúc canh ba,Ngài chứng “Thiên nhãn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết cấu tạo thếgiới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống còn, tiêu hủy, chết mất) nhưthế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội (thiền định), đếnkhoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô lậu, sạch hết trầncấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rõ Khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừ đau khổ,và con đường đạo qủa viên mãn. Ngài tự biết: “Ta đã giải thoát, không còn táisinh nữa, tu hành viên mãn, việc làm đã xong, không còn trở lại trạng thái khixưa nữa”.

 Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh, hốt nhiên “ToànNgộ”, thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ, thần thông quảng đại, Ngài đạt ĐạoVô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác” nên được gọi là bậc Toàn Giác, NhưLai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

II )-Từ Thành Đạo tới nhập Niết Bàn:

1)- ĐứcPhật hành Đạo

 Saukhi thành Đạo, đức Phật quán khắp Vũ trụ, Ngài thấy có vô lượng thế giới, quánchúng sinh Ngài biết mỗi chúng sanh đều có Phật tính (tánh), vì chúng sinh ngụplặn trong si mê tối tăm nên phải trầm luân trong biển sinh tử luân hồi không cóngày ra khỏi. Ngài quán và biết rằng con người hiểu được giáo lý nếu Ngài nóira, và có người kham nhận được sự tu hành. Do đó, đức Phật quyết định sẽ giáohóa chúng sinh cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa. Ngài cũng phải làm nhiệmvụ của bậc Phật như tất cả chư Phật trong Vũ trụ đã làm, đang làm và sẽ làm đểdẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau và được giải thoát. Sự hoằng pháp của đứcPhật trên ba nguyên tắc:

a)-Hành Đạo theo thứ lớp:

 Bắtđầu đức Phật nghĩ đến việc độ cho các bậc thiện tri thức là những người khôngcòn nhiều trần cấu nhiễm ô, nghĩ đến đạo sĩ Alamara Kalama là vị đạo sư mà lầnđầu tiên Ngài tìm đến tham học. Ngài dùng tuệ nhãn được biết vị này mới từ trầnbảy ngày, Đức Phật lại nghĩ đến Uddaka Ramaputta là vị thứ hai, dùng mắt Phậtnhìn, Ngài thấy vị này cũng vừa qua đời mới có một ngày!

1- Batháng đầu : ĐứcPhật nghĩ đến năm vị đồng tu khổhạnh, Ngài bèn đi đến vườn Lộc Uyển xứ Benares gặp năm vị này là Kiều trần Như(Kondana), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Ma ha Nam (Mahãnãma), và Ác Bệ(Assaji).

 Lúcđầu, năm vị thấy đức Phật đến đều tỏ ra nghi ngờ và chỉ trích lối sống củaNgài, Đức Phật phải giải thích đến lần thứ ba rằng: “Không có vấn đề sống xahoa trở về đời sống lợi dưỡng, Ta chỉ làm sao cho thân thể đủ sức chịu đựng đểhành thiền kiên cố mà thôi. Đó là con đường trung đạo cần phải theo, và bây giờTa đã thành Đạo, đạt qủa vô sinh bất diệt, nếu người nào hành đúng như lời NhưLai dạy cũng sẽ chứng ngộ. Hơn nữa, nếu Như Lai không biết các ông ở đâu, làmsao tìm đến đây được?; vả lại, Ta chưa bao giờ nói những lời này với các ông,như vậy các ông đủ hiểu rồi”; bấy giờ năm vị mới tin, bỏ lối tu khổ hạnh vànghe Giáo pháp của Ngài.

 Bàigiảng đầu tiên là “Bốn Diệu đế”, do“Sinh, già, bệnh, chết” nên khổ, muốn khỏi khổ phải tìm nguyên nhân của khổ làdo “Tham, sân, si …”, và phải diệt khổ bằng “Tám Chính đạo” là “Chính Kiến,Chính tư duy, Chính ngữ, Chính mệnh, Chính nghiệp, Chính tinh tấn, Chính niệm,và Chính định”. Cả năm vị học và hành trì dần dần đều đắc quả Thánh, nhưng vịđắc qủa A La Hán (Quả Ariya là quả A La Hán, Ariya có nghĩa là cao qúy) đầutiên là Ngài Kiều Trần Như.

 Thời ấy, tại Ấn Độ, ngoài quan điểm sống theo lối khổ hạnh để giác ngộ,còn có quan niệm cho rằng con người chết là hết, linh hồn và thân xác tan biến,tất cả chẳng còn gì. Hãy ăn uống tận hưởng mọi lạc thú ở đời, không cần biếtđến đạo đức, khoái lạc là thực tế, không cần phải kiểm soát dục vọng. Không cóluân hồi, không có tái sinh, không có qủa báo thiện ác, tất cả chỉ là bản năngtự nhiên mạnh được yếu thua v.v… Do đó, đức Phật đã phải đối phó với các quanđiểm sai lầm ấy.

2-Thiết lập Tăng đoàn: Sau khi có năm đệ tử, đức Phật giáo hóa 55Bà la môn mà ông Da xá (Yasa) là người dẫn đầu, số người này cùng với năm vịđầu tiên hợp lại là 60 và kể như thiết lập Tăng đoàn từ đây.,Ng ài dạy về “BốnDiệu Đế” và “Tám Chính Đạo”. Cha mẹ và vợ của ông Da Xá là Phật tử tại gia đầutiên của đức Phật. Sau ba tháng 60 vị đệ tử Phật đầu tiên này đã hành trì vữngchắc và giữ giới luật đầy đủ, đều đắc A la Hán, Đức Phật thọ ký và cho các vịấy đi hành đạo các nơi.

3- Thunhận hàng loạt đệ tử: Còn Ngài đi xuống phiá Nam đến xứ Ưu Đầu Tuần La, thuphục Rắn lớn dữ trong phòng thờ lửa của người đứng đầu Đạo thờ Thần lửa làUruvela Ca Diếp (Uruvelã Kassapa), vị này đem 500 đệ tử cùng xin xuất gia theođức Phật tu hành. Vị này có hai người em đều ở mỗi người một nơi, một người tênNadi Ca Diếp (Nadĩ Kassapa) có 300 đệ tử, và Gaya Ca Diếp (Gayã Kassapa) có 200đệ tử. Cả hai người cũng thờ Thần lửa, khi thấy người anh đã theo đức Phật tuhành, họ cùng với đệ tử đến theo Ngài tu hành.

 Ngài giảng cho 1000 đệ tử này về: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nằm tronglửa, lửa từ tham ái, sân hận, si mê, sinh già bệnh chết, buồn phiền, đau khổ,tuyệt vọng; hãy quán nhàm chán hình sắc âm thanh, hương vị xúc, chán luyến ái.Do sự nhàm chán dứt khoát ấy, được giải thoát. Tất cả hành trì dũng mãnh nênđều chứng qủa Thánh.

4- Thunhận hai đệ tử quan trọng: Sau khi thu nạp hơn 1000 đệ tử, đức Phật đến nước MaKiệt để thực hiện việc hứa với Vua Tần Bà Xa La là “Khi đắc Đạo sẽ trở lại”; khiVua biết Ngài đã đắc Đạo rồi, mừng rỡ và cúng dường Phật và Đại chúng Đạo tràng“Trúc Lâm”.

 Lúcấy, Xá Lợi Phất (Upatissa) và Mục Kiền Liên (Kolita) cư ngụ gần thành Vương Xá(Rãjagaha), là bạn với nhau, có chí học đạo, đã tìm đến nhiều thầy, và học hếtchữ thầy rồi cũng chưa thỏa mãn. Một hôm, Xá Lợi Phất thấy một Sa Môn đang đikhất thực trong thành Vương Xá với oai nghi của bậc Thánh nhân, nên để ý và đếnhỏi. Vị này cho biết tên là Ác Bệ (Assaji) và qua câu chuyện, Xá Lợi Phất đượcTôn giả Ác Bệ cho biết giáo pháp vắn tắt đã học là “Tất cả ở đời đều do nhânduyên sinh, Như Lai chỉ rõ nhân duyên ấy và cách diệt, đó là giáo huấn của vịĐại Sa Môn”; nghe những lời ấy, Xá Lợi Phất thấy trí tuệ bừng sáng, nên hỏitiếp và được biết vị Đại Sa Môn đang ở “Rừng Trúc”.

 XáLợi Phất liền đến tìm Mục Kiền Liên nói lại cơ duyên của mình và nói những lờiTôn giả Ác Bệ đã nói, Mục Kiền Liên nghe rồi cũng tỏ sáng vô cùng. Hai ngườihân hoan đem theo một số bạn đến Trúc Lâm xin xuất gia học đạo, đều được đứcPhật thu nhận. Chỉ trong ít ngày cả hai vị đều đắc A La Hán, được đức Phật ấnkhả cho hai vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là thượng thủ bậc nhất. 

 Sauđó đức Phật gặp Trưởng giả Cấp Cô Độc là người giầu có bậc nhất tại nước Xá Vệ.Trưởng giả đã phát tâm rộng lớn xây cất Đạo tràng Kỳ Hoàn ở phiá Bắc Ấn Độ đểcúng dàng Ngài và đại chúng Tăng.

5- Trởvề thăm quê hương:Lúc ấy vua Tịnh Phạn (Suddhodana) nghe tin Ngài đã thành Phật, liền sai sứ giảđi mời Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavathu); nhưng chín lần cử chín sứ giảđi mà không có người nào trở lại, vì các vị này đến được đức Phật thuyết phápnghe rồi ở lại xin xuất gia học Đạo. Tới vị thứ mười tên Tu Đà Di (Kãludãyi),vị này cũng ở lại học đạo, nhưng vẫn nhớ lời Vua, nên sau khi đắc đạo bèn thỉnhPhật về thăm Vua.

 Dọcđường trở về nơi sinh thành trong hai tháng, gặp người nào đức Phật cũng giáohóa độ cho hết thảy, khi về tới thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật chỉ ở lại có bảyngày, nhưng đã giáo hóa tất cả hoàng gia. Tại đây lúc đầu vì có sự nghi ngờ củacác bậc cao niên, nên Ngài đã dùng thần thông bay ngồi trên không, làm lửa vànước từ toàn thân phát ra. Sau đó có nhiều vị trẻ trong hoàng gia theo Ngàixuất gia tu đạo, như Nan Đà, A Nan Đà, A La Luật, La Hầu La là con ruột củaNgài lúc ấy mới bảy tuổi, v.v…

 Không bao lâu sau, đức Phật biết Vua cha bệnh sắp qua đời liền về thăm,thấy Vua buồn rầu, Ngài nói về lý “vô thường, khổ, không, vô ngã”; nghe xong,gương mặt vui tươi, Vua cất tiếng niệm Phật rồi băng hà nhẹ nhàng. Sau khi Vua Băng hà, Hoàng hậu Ma ha Bà XàBa Đề (Mahã Pajãpaĩ) có con trai là Nan Đà (Nanda) đã xuất gia, và con gái tênNan Đề (Nandã) (về sau cũng xuất gia),bà xin xuất gia lấy tên là Đại ái Đạo. Công chúa Da Du Đà La là vợ của Thái tửSĩ Đạt Ta cũng xin xuất gia, Bà Đại Ái Đạo nhờ Tôn giả A Nan xin giùm đức Phậtchấp nhận cho bà được xuất gia và thành lập Ni đoàn với điều kiện phải tuân thủgiới luật do đức Phật đặt ra.

b)- Tùyphương tiện:

 Trong suốt đời đức Phật hành đạo, không phải lúc nào cũng thuận buồmxuôi gió, có những lúc Ngài phải đương đầu với những khó khăn chống đối; sựchống đối này thường là do những đạo sư của những ngoại đạo, tà đạo mê tín, vàngay cả những người muốn tranh giành ảnh hưởng với Ngài, nhưng tất cả đều đượcNgài giải quyết êm xuôi.

Xem thêm: công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật điện lực dầu khí việt nam

1- Đốiphó với khó khăn:Như có lần bị Bà la môn chửi bới thậm tệ, Ngài làm thinh không trả lời. Chửibới một lúc thật lâu không thấy đức Phật phản ứng gì cả, người ấy hỏi: “Sao ôngbị chửi như thế mà không trả lờì?” Ngài hỏi lại để đáp: “Nếu ông đem tặng qùacho người khác mà người đó không nhận, qùa ấy thuộc về ai?”. Người ấy trả lời:“Qùa ấy thuộc về tôi”. Ngài bảo: “Lời ông chửi từ nãy đến giờ tôi không nghe,không nhận, trả lại cho ông”, lúc đó người ấy mới thôi chửi. Cũng có trường hợptương tự như thế, nhưng đức Phật trả lời cách khác là : “Những lời chửi rủacũng như người nhổ nước bọt từ miệng phun ra ngược chiều gió, chỉ làm dơ mặt người nhổ mà thôi”.

 Cólần, con gái của ngoại đạo mang cái bụng to tướng đến la lối trước mọi ngườirằng “Cái bào thai trong bụng mà tác giả là Sa Môn Cù Đàm”, và đòi phải giảiquyết ổn thỏa; Đức Phật chỉ làm thinh, rồi Ngài dùng thần thông làm rớt cáibụng giả của cô gái ra, mọi người cười ồ, cô gái xấu hổ cúi đầu đi mất, khôngdám nhìn lại.

 Trong hạ thứ 20, đức Phật gặp Angulimala là người đã chặt 999 ngón taycủa 999 người. Ngài dùng thần thông khiến kẻ ác không thể đuổi bắt Ngài đượcđến kiệt sức mà phải thốt lên: “Sa Môn, hãy dừng lại”. Ngài đáp: “Ta đã dừng từlâu, còn ông chưa dừng bước”. Angulimala nói: “Tôi đã dừng rồi, Sa Môn còn đi,tại sao ông lại nói rằng tôi không dừng, còn ông đã dừng, tại sao ông nói thế?”Ngài đáp: “Như lai đã dừng luôn và mãi mãi, Như Lai đã dứt bỏ không còn hànhhung một sinh vật nào, còn ông tiếp tục sát hại đồng loại với bàn tay đẫm máu,vì vậy Như Lai đã dừng và ông chưa dừng”. Nghe đến đó, Angulimala quăng bỏ hếtvũ khí, đi đến gần đức Phật qùy lạy xin Ngài chấp thuận cho được theo học đạo,và đã được Ngài chấp thuận, sau đó Angulimala tinh tấn tu hành không bao lâuđắc qủa A La Hán.