Bộ Hình Ảnh Đức Phật Đản Sanh Pl, Hình Ảnh Phật Đản Sanh (Khổ Lớn)

*
*
Đức Phật đản sinh là một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử của nhân loại. Sự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của dòng chuyển biến về quan niệm nhân sinh và thế giới, là cuộc cách mạng hoàn toàn về nhận thức, tư duy cũng như hành động của con người. Sự kiện đản sinh của đức Phật đã mang về cho nhân gian một sinh khí mới tràn đầy niềm tin và sự an lành. Giờ đây đất trời đã đổi thay, vạn vật cũng mang màu áo mới, hoa cỏ xanh tươi đùa vui trong ánh nắng. “Khắp nơi hoa đua nhau trổ màu trên lá, chim đua nhau chuốt giọng trên cành”, người người vui ca trên khuôn mặt rạng rỡ, vì đã có ánh đạo dẫn dắt chúng sanh, từ bến mê quay về bờ giác. Phật đản hiện về trong cơn mơ của em thơ, hiện về trong ký ức của những cụ già và trong tâm tư, tình cảm của tất cả mọi người con Phật. Đản sanh đã trở thành một cái gì đó vừa có tính thiêng liêng mầu nhiệm, nhưng cũng rất thân quen gần gũi tự bao giờ.

Hồi còn nhỏ, mỗi lần mùa Phật đản về, tôi thường hay đến chùa nhìn quý thầy trang hoàng lễ đài, và tái hiện quang cảnh vườn Lâm-tỳ-ni tuyệt đẹp. Hình ảnh đức Phật sơ sinh bước đi bảy bước trên hoa sen mặt hướng về phương bắc, một tay chỉ trời, tay chỉ đất, rồi nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”, Hoàng hậu Ma Da với tay trên cành hoa Vô Ưu trong vườn Lâm-tỳ-ni và đản sanh thái tử; hình ảnh chư Thiên rải hoa cúng dường, hình ảnh khói trầm hương nghi ngút hòa quyện trong không gian lặng yên.v.v.. đã làm tôi say mê thích thú nhìn hoài mà không thấy chán. Nhưng càng nhìn tôi lại càng thắc mắc, tại sao mới sinh ra mà lại đi được bảy bước? Tại sao lại đi trên hoa sen mà không phải là hoa khác? Tại sao lại nói “duy ngã độc tôn” ?.v.v.. Những ưu tư thắc mắc đó cứ theo hoài trong tôi suốt bao năm nhưng vẫn chưa có lời giải đáp. Thế rồi, hội đủ nhân duyên tôi xuất gia học đạo. Mấy mươi năm được học hỏi kinh sách, được quý thầy giảng giải, tôi mới nhận ra rằng tất cả những hình ảnh đó đều có những ý nghĩa đặc thù và là những bài học vô cùng cao quý. Nhân mùa Phật đản, chúng ta thử tìm hiểu lại ý nghĩa của những điển tích ấy để ngỏ hầu làm rõ một số vấn đề.

Bạn đang xem: Bộ Hình Ảnh Đức Phật Đản Sanh Pl, Hình Ảnh Phật Đản Sanh (Khổ Lớn)

1.  Niên đại đản sanh

Niên đại đản sanh của Đức Phật là một vấn đề quan trọng đối với các sử gia. Thật sự nó là vấn đề thiết yếu cho ngành sử học Ấn Độ và thế giới. Do đó, nhiều học giả Phật học đã cố gắng nỗ lực tìm hiểu tường tận và đi đến việc chấp nhận một niên đại thống nhất.Tuy nhiên, đại đa số các học giả Nam Á và Phương Tây đi theo một khuynh hướng, còn các học giả Nhật Bản lại theo một khuynh hướng khác. Song tất cả đều xác tính rằng Đức Phật trụ thế 80 năm và 45 năm thuyết pháp độ sanh. Niên đại đức Phật đản sanh đều dựa vào “Biên niên sử”.

 “Biên niên sử” là một sử liệu đáng tin cậy bởi những giá trị bảo lưu khá chính xác của nó. “Biên niên sử” xuất phát từ Tích Lan, một hòn đảo độc lập tách rời với đất liền, nên chúng ít bị các trào lưu văn hóa khác làm pha trộn. Asoka đã nhìn thấy tính ưu việt của xứ sở này nên đã cho Mahinda, con trai của mình đem tam tạng giáo điển qua đây cất giữ và truyền bá. Nhờ công lao này mà kinh điển Phật giáo Nguyên thủy vẫn lưu truyền cho đến ngày hôm nay. Tài liệu này cho rằng đức Phật nhập Niết Bàn vào năm 544 hay 543 tr.TL. Đây là một cứ liệu lịch sử mà hầu hết các học giả đều chấp nhận. Do vậy, tại đại hội Phật giáo thế giới họp tại Colombo năm 1950 đã đi đến việc quyết định lấy năm Đức Phật Niết Bàn là năm 544 tr.TL, tức đức Phật đản sinh vào năm 624 tr.TL.

Theo Giáo sư Tiến sỹ K.T.S. Sarao, Trưởng phân khoa Phật học, đại học Delhi: để có được cứ liệu lịch sử về niên đại của đức Phật, chúng ta phải dựa vào ba nguồn dữ liệu chính đó là: Niên Đại Dài (Long Chronology), Niên Đại Ngắn (short chronology), và Chúng Thánh Điểm Ký (The Dotted Record). 

Niên đại dài chủ yếu dựa vào các truyền thuyết Phật giáo Nam truyền được ghi lại trong Dipavamsa và Mahavamsa. Trong sử liệu của Dipavamsa ghi rằng: “218 năm sau khi đức Phật nhập niết bàn, vua A Dục đăng quang Hoàng đế.” Mahavamsa cũng ghi tương tự “Sau khi đức Phật Niết-bàn và trước khi lễ đăng quang của (Asoka) đã có 218 năm, điều này nên được biết) Do đó năm chính xác đức Phật nhập niết bàn được xác định như sau: Asoka lên ngai vàng vào năm 268 TCN; Lễ đăng quang diễn ra sau đó ba năm (268-3) = 265 TCN; Sự cai trị của Asoka đã diễn ra (268 - 3) = 218 năm. Như vậy năm đức Phật nhập diệt diễn ra (218 + 265) = C. 483 TCN.

Xem thêm: thay đổi a1 cho đến khi biên độ a đạt giá trị cực tiểu thì

Theo tài liệu Chúng thánh điểm ký, tài liệu này được chứa trong Li Tai San Pao Chi do Fei Chang Fang viết và đã được sử dụng làm trụ cột chính để hỗ trợ cho nguồn niên đại dài (Long Chronology). Theo văn bản này, sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả Upāli đã ghi chép trong luật tạng vào ngày lễ Tự tứ (Pavāranā) 15 tháng 7 hằng năm, tức ngày trăng tròn, Ngài đã đánh một dấu chấm (trên một bản ghi) và đặt nó gần với văn bản Luật tạng (Vinaya). Sau đó, truyền thống điểm ký này được lặp lại hằng năm. Từ tôn giả Upāli truyền lại cho đệ tử là ngài Dāsaka, ngài Dāsaka truyền xuống ngài Sonaka…rồi đến ngài Siggava…và đến ngài Moggalīputta Tisa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu)…và đến ngài Candavajjī. Cho đến ngày 15 tháng 7 năm thứ 7 thời vua Hán Minh Đế ‘Yung-Ming’ (489 AD), số điểm ký (dấu chấm trong luật tạng) đã tính được 975 điểm. Một chấm được tính là một năm. Như vậy, trên cơ sở này, chúng ta có được: Đức Phật nhập Niết bàn = 489 AD - 975 = 486 TCN. Tuy nhiên, W. Pachow cho biết có ba dấu chấm nữa có thể được thêm vào những sau năm 489 sau Công nguyên, thực tế là 972 chấm chứ không phải 975. Do đó, ngày thực tế của đức Phật nhập Niết bàn là: 489 AD - 972 = 483 TCN. Ngài thọ 80 tuổi tức năm đản sinh 483 TCN +80 = 563 TCN. Như vậy, cứ liệu của Niên đại dài và Chúng thánh điểm ký hoàn toàn giống nhau.

Theo truyền thống Đại thừa Phật giáo: đức Phật đản sinh vào ngày 15 tháng 4, xuất gia ngày 8 tháng 2, thành đạo ngày 8 tháng 12 và nhập niết bàn 15 tháng 2 âm lịch. Theo Phật giáo Nam truyền, lễ Veska, Tam hợp bao gồm đức Phật đản sanh, thành đạo và niết bàn cùng ngày trăng tròn tháng tư âm lịch. Và đại lễ Vesak-Tam hợp được tổ chức hằng năm tại Trụ sở Liên hiệp quốc, New York. Từ năm 2004 đến nay, cộng đồng Phật giáo thế giới đã tổ chức thành công nhiều lần Đại lễ Vesak LHQ, trong số đó, đại đa số là dưới sự bảo trợ của chính phủ Hoàng gia Thái Lan và sự chứng minh của Giáo hội Phật giáo Thái Lan, trường đại học Phật giáo Mahachulalongkorn làm đơn vị tổ chức chính tại Trụ sở Liên Hợp Quốc Châu Á Thái Bình Dương và Trung tâm Phật giáo thế giới Buddhamonthon, Bangkok, Thái Lan. Năm 2008, và 2014 Việt Nam đăng cai trọng thể Đại lễ này, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước và GHPGVN với bạn bè trên thế giới.

Xem thêm: bản cam kết tu dưỡng rèn luyện phấn đấu năm 2018 của giáo viên

2. Hội ngộ duyên lành

Ai cũng biết rằng thái tử Tất-đạt-đa là con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da ở thành Ca-tỳ-la-vệ thuộc xứ Nepal, Ấn Độ. Tại sao đức Phật không chọn Trung Quốc, Mỹ hay Việt Nam để đản sanh mà lại chọn Ấn Độ? Nếu nói tính bình đẳng thì ở đâu cũng là chúng sanh cả, sao lại chọn vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da? Tất nhiên, những chọn lựa của một bậc giác ngộ đều có những lý do chính đáng. Bởi vì nơi đây đã hội đủ nhân duyên cho một đức Phật ra đời. Đây cũng là nơi Bảy vị Phật quá khứ đản sanh, các trụ đá đánh dấu bảy vị Phật quá khứ đều nằm trong khuôn viên Lâm tỳ ni. Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da đã nhiều đời tu nhân tích đức, lại thuộc giòng dõi cao quý. Ấn Độ là một đất nước có nền văn minh lâu đời và đã phát triển đến đỉnh cao của nhân loại. Tại đây, một xã hội đa dạng bao gồm nhiều tôn giáo khác nhau. Có đến 92 giáo phái tồn tại trong đó có 6 phái tiêu biểu, gọi là 6 phái ngoại đạo, mỗi phái có một chủ thuyết riêng. Chính sự phồn tạp về tôn giáo này đã làm cho xã hội Ấn Độ vốn sâu nặng trong sự phân chia giai cấp đã rối ren lại càng phức tạp hơn. Bên cạnh đó, địa bàn Ấn Độ cũng rất đặc thù, có đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới, từ đây ảnh hưởng xuống các vùng cao nguyên và đồng bằng châu thổ. Đức Phật quán sát thấy, thành Ca-tỳ-la-vệ, một tiểu vương quốc thuộc Ấn Độ theo đạo Bà-la-môn, là nơi mà đông đảo người Bà-la-môn nghiên cứu và tu tập theo bốn tạng kinh Vệ-đà. Đặc biệt trong khu vực này, xứ Ma-kiệt-đà, một vương quốc láng giềng của Ca-tỳ-la-vệ, đã được một nghìn vị Phật quang lâm và ban phúc gia trì, còn Ca-tỳ-la-vệ được coi là trung tâm điểm để từ đó lan tỏa giáo pháp đi mọi nơi. Đức Phật quyết định giáng sinh tại khu vực trọng yếu này, nơi có vị trí thuận lợi cho việc truyền bá giáo pháp đi khắp bốn phương.

3. Lâm-tỳ-ni, nơi đức Phật đản sanh

Sau khi nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trời xuống khai hông bên phải vào lòng, hoàng hậu Ma Da bắt đầu thụ thai. Đến kỳ sinh nở, theo phong tục cổ truyền Ấn Độ, người con gái phải về quê để sanh con. Như vậy, Lâm-tỳ-ni là một khu vườn nằm giữa chặng đường từ Ca-tỳ-la-vệ (Kapila-vastu) và Câu lợi (Ko-la) thuộc Ấn Độ. Khu vườn này vốn do vua Thiện Giác thiết lập.

Lâm-tỳ-ni, tiếng Phạn là Lumbini, nay Rumindai. Người Trung Hoa dịch là Hoa quả thắng diệu cụ túc, Lạc thắng viên quang hay Giải thoát xứ-khả ái hương đoạn diệt...Nói chung đây là một khu vườn tuyệt đẹp, dành cho các cung phi mỹ nữ và hoàng hậu thưởng ngoạn. Đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu tích và bằng chứng xác thực về khu vườn nổi tiếng này. Theo Hwschu-man, một học giả nổi tiếng người Đức cho rằng thạch trụ do vua A Dục dựng vào năm 245 tr.CN có ghi: “Hai mươi lăm năm sau khi lên ngôi, quốc vương Devanampiya “thiên ái thiện kiến” tức A Dục ngự đến đây chiêm bái, vì đức Phật Thích Ca là bậc Thánh nhân của bộ tộc Thích Ca đã đản sanh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc một tượng đá và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế cho làng Lumbini, và giảm thuế hoa lợi từ 1/4 theo lệ thường xuống 1/8”. Như vậy, Lâm-tỳ-ni dù ở trong đức tin hay trong sự thật lịch sử, thì tất cả cũng đã được sáng tỏ. Ngày nay Lâm-tỳ-ni không còn thơ mộng như xưa, nhưng tiếng vang vẫn còn đó. Nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới đã về đây giữ lại dấu tích lịch sử thiêng liêng này. Đây là một trong “tứ động tâm” hiện được thế giới công nhận và bảo tồn.