Du Già Sư Địa Luận Du Già Sư Địa (Tập 1), Du Già Sư Địa Luận Thích (P

Sau khi đức Phật nhập Niết bàn, ma sự phát khởi tơi bời, bộ phái tranh chấp nhau nổi dậy và đa phần chấp trước về hữu kiến.


Nói luận này vì có hai duyên: Một là, vì muốn giáo pháp vô thượng của Như Lai được trụ lâu trên thế gian. Hai là, vì sự lợi ích, an lạc, bình đẳng của các hữu tình.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, vì thánh giáo của Như Lai như nước cam lộ đã bị ẩn một, nay nhớ nghĩ, góp nhặt lại và làm cho nó thêm mở tỏ. Giáo pháp nào chưa bị ẩn một, dùng sự vấn đáp và quyết định lựa chọn, làm cho giáo pháp ấy được hưng thịnh hơn. Hai là, vì hết thảy chúng sinh trong hữu tình giới: Loại có chủng tính (hạt giống của giác tính), mỗi loại đều y vào bậc của mình, tu các pháp thiện xuất thế, được đạo quả ba thừa , ra khỏi vòng sinh tử. Loại không có chủng tính, y vào nhân, thiên thừa, tu các điều thiện thế gian, được đạo quả nhân thiên, thoát khỏi ác thú.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, hoặc có nhiều người nói về “Không”, nhưng không phải liễu nghĩa kinh. Như họ nói về lượng tính, chấp chặt vào việc gạt bỏ tất cả pháp là “Không”. Tất cả đều chán ghét và chống trái với “hữu giáo”, khiến cho họ, tùy theo sự liễu ngộ các pháp hữu tướng, bỏ tư tưởng “Không”, để giải những mật ý của kinh. Hai là, lại có nhiều người nói về “Hữu”, nhưng không phải liễu nghĩa kinh. Như họ nói về lượng tính, chấp chặt vào “Hữu”, tất cả đều chán và sợ về “Không giáo”, khiến cho họ, tùy theo sự liễu ngộ các pháp vô tướng, bỏ tư tưởng “Hữu”, để giải thích mật ý của kinh.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, vì muốn thành thựu chủng tính Bổ đặc già la của Bồ Tát, nương vào giáo nghĩa Đại thừa, trùm khắp văn, nghĩa, hành, quả của các Thừa, sinh ra trí thiện xảo phương tiện, dứt hết thảy mọi chướng, tu hết thảy các pháp thiện, chứng đạo Bồ đề của Phật, dù cho đến cùng tột đời vị lai, việc lợi mình, lợi người, vẫn không bao giờ ngưng bỏ. Hai là, vì muốn thành tựu chủng tính Nhị thừa và không có chủng tính Bổ đặc già la, cũng nương vào giáo nghĩa Đại thừa, khiến cho văn, nghĩa, hành, quả trong mỗi thừa của mình, sinh ra trí thiện xảo phương tiện, dứt phiền não chướng, dẹp mọi thứ ngăn che, ràng buộc, tu phần thiện pháp nơi mình, chứng được đạo quả nơi Thừa của mình và ra khỏi các ác thú trong ba cõi.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, hoặc có người có tập khí từ kiếp trước nên sinh ra vô tri, do dự, điên đảo, chấp trước vào tà giáo, ngoại đạo, tâm lượng nhỏ hẹp, không tin tưởng, không hiểu rõ Đại thừa. Nay muốn cho họ quyết định lìa khỏi điên đảo nên phân biệt rành rẽ pháp tướng Đại thừa, khiến cho họ sinh tâm tín giải. Hai là, có người nghe các kinh, nhưng khó hiểu được những ý thú sâu xa của kinh, tâm họ mê loạn, sinh ra chê bai, không tin. Nay muốn đem lại lợi ích cho họ, nên khéo léo khai thị, khiến cho họ sinh tâm tín giải.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, vì muốn cho những người chăm chỉ tu hành lợi lạc, cần góp nhặt những pháp nghĩa quan yếu, rộng rãi trong các kinh lại và phân biệt, bàn giải một cách sơ lược. Hai là, vì muốn cho những người hay thuyết pháp được lợi lạc, cần bàn luận rộng, mỗi mỗi pháp, khai thị ra vô biên nghĩa lý sai biệt.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là: vì muốn mở tỏ thực tướng cửa các pháp, nên có sự hỏi đáp và quyết định lựa chọn để lập nên chính luận. Hai là, vì muốn diệt trừ hết thảy vọng chấp, nên có sự vấn đáp, quyết chọn, đả phá tà luận.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, vì muốn bày rõ về tình có, lý không của tính Biến kế sở chấp ; lý có, tình không của tính Y tha khởi và tính Viên thành thực , khiến cho người tu bỏ sự chấp trước về tăng, ích, tổn, giảm. Hai là, vì muốn bày rõ sự sai biệt về đạo lý thế gian, chứng được pháp môn thắng nghĩa, khiến cho kiến giải của người tu về nhị đế không bị điên đảo.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, vì muốn khai xiển hai loại lý môn là tùy chuyển và chân thực, khiến cho người ta biết được pháp giáo của nhị tạng, tam tạng không chống trái nhau. Hai là, vì muốn khai xiển bốn loại lý môn là nhân duyên, duy thức , vô tướng và chân như, khiến cho người tu về quán hành biết có sự sai biệt.
Lại có hai duyên, nên nói luận này: Một là, thị hiện ra cảnh giới sai biệt, khiến cho người ta biết được sự sai biệt về tự tính, tướng trạng và ngôi vị của các pháp. Hai là, thị hiện ra sự tu hành sai biệt, khiến cho người ta biết được đạo quả phương tiện, căn bản sai biệt của tam thừa.
Mọi loại trong mọi duyên phải làm, được trình bày như trên, đủ biết rằng, các loại dị thuyết trong kinh, luận tại khắp nơi, đều là việc phải làm của luận này.
Từ thời vô thủy cho tới ngày nay, các loài hữu tình đối với thực tướng trong hết thảy pháp xứ, đều không biết, ngờ vực, điên đảo, thiên chấp, khởi ra các phiền não, sinh ra nghiệp hữu lậu, bị luân hồi trong năm thú , chịu ba đại khổ . Đức Như Lai ra đời, tùy theo chỗ thích hợp, dùng phương tiện nói về thực tướng trong các diệu pháp xứ, khiến cho hết thảy hữu tình biết hết thảy pháp đều như thị, như thị không, nên phi hữu; như thị, như thị hữu, nên phi không. Hiểu suốt các pháp là phi không, phi hữu. Xa lìa mọi ngờ vực, điên đảo, thiên chấp, tùy theo chủng tính, ngay tại nơi ấy, phát khởi ra sự tu hành. Tu hành dần dần đầy đủ, tùy theo chỗ ứng hợp, diệt hẳn được mọi chướng ngại, được tam Bồ đề và chứng được sự an vui tịch diệt.
*

Sau khi đức Phật nhập Niết bàn, ma sự phát khởi tơi bời, bộ phái tranh chấp nhau nổi dậy và đa phần chấp trước về hữu kiến. Bồ Tát Long Mãnh là người đã chứng được Cực Hỷ Địa , góp nhặt “vô tướng không giáo” của Đại thừa, làm ra bộ luận Trung Quán, kê cứu và làm sáng tỏ những nghĩa chân yếu, để trừ bỏ hữu kiến của những người chấp trước. Các vị Đại luận sư như Thánh Đề Bà tạo ra bộ Bách Luận, để mở rộng đại nghĩa.
Lại có chúng sinh chấp trước về “không kiến”. Bồ Tát Vô Trước là người đã chứng được Pháp Quang Định, đã lên ngôi vị Sơ Địa, được đại thần thông, phụng sự đức Đại Từ Tôn Di Lặc, thỉnh Ngài nói ra bộ luận này. Bộ luận này, không lý nào là không thấu cùng, không sự nào là không suốt hết, không văn nào là không giải thích, không nghĩa nào là không bàn rõ, không ngờ vực nào là không trừ bỏ, không chấp trước nào là không phá sạch, không hành nào là không tu tập, không quả nào là không chứng đắc. Chính vì Bồ Tát, khiến cho cảnh, hành, quả của các Thừa đều được thiện xảo, siêng tu đại hạnh, chứng đại bồ đề, vì khắp hữu tính, nói ra những lời không có điên đảo. Và ngài lại vì các Thừa khác, làm cho họ nương vào tự pháp, tu theo phần hành nơi mình và chứng được đạo quả nơi Thừa của mình.
Danh nghĩa của nó thế nào? Các pháp sở hữu của hết thảy Thừa, Cảnh, Hành, Quả, đều gọi là Du Già. Vì hết thảy chúng đều có nghĩa tướng ứng, phương tiện thiện xảo.
Cảnh Du Già là hết thảy cảnh không có tính điên đảo, không có tính chống trái nhau, mà nó có tính hay tùy thuận, tính xu hướng cứu cánh, cùng hợp với lý giáo chân chính. Nó tương ứng với hành và quả.
Tên Du Già và cảnh Du Già, tuy thông suốt hết thảy, song trong các kinh luận, tùy cơ nghi, theo pháp tướng, nên có nhiều thuyết khác nhau. Hoặc có người nói về bốn thứ đạo lý của các pháp, gọi là Du Già, tức là tác dụng, quán chiếu, đối đãi và chứng thành sự vật như thế. Nó tổng nhiếp hết thảy đạo lý chân chính. Hoặc có người nói hai mươi bốn “bất tương ứng hành” là Du Già, vì chúng có nhân quả tương ứng, không chống trái nhau. Hai thuyết trên đều coi như là phần quyết trạch, nhiều chỗ đã giải thuyết rộng rãi. Hoặc có người nói, tạp nhiễm, thanh tịnh, vô tính là Du Già. Vì nó có tính cách bỏ trái, hợp thuận làm tối thắng, như Đại Phạm Văn Khế Kinh đã nói.
Các vị sư trong phái Du Già quán chiếu, không có chút pháp nào có thể khiến cho sinh và có thể khiến cho diệt. Cũng không có chút pháp nào có thể muốn cho chứng đắc và muốn được hiện quán. Nghĩa là đối với “hành” trong hết thảy pháp tạp nhiễm, vô tính trong Du Già, quán chiếu, không có chút pháp nào có thể khiến cho sinh và có thể khiến cho diệt. Và đối với “hành” trong hết thảy pháp thanh tịnh vô tính trong Du Già quán chiếu, không có chút pháp nào có thể muốn cho chứng đắc và muốn được hiện quán. Hoặc có người nói cứu cánh thanh tịnh chân như là Du Già, vì chúng tương ứng với hết thảy công đức trong chân lý tối cực, như trong Kinh Nhập Lăng Già đã nói.
Nếu quán chân nghĩa, trừ bỏ phân biệt, xa lìa vết nhơ, không có năng thủ cũng không có sở thủ, không có cổi, không có buộc, khi ấy ở trong định sẽ thấy được Du Già, nhưng không còn lo nghĩ, nghi hoặc. Trong kinh Đại Nghĩa nói từ một pháp tăng đến một trăm pháp, đều gọi là Du Già, vì pháp môn tuy riêng, nhưng nghĩa không trái nhau. Trong kinh Quảng Nghĩa nói, uẩn, xứ, giới, duyên khởi, đế đều gọi là Du Già, vì nó nhiếp hết thảy cơ nghi, cảnh thuận.
Như thế, trong các kinh luận nói hết thảy cảnh đều là Du Già, vì nó tóm thâu đầy đủ bốn tính thuận với bốn pháp .
Hành của Du Già là hết thảy hành tướng đều thuận nhau, hợp chính lý, thuận chính giáo, đi tới chính quả gọi là Du Già. “Hành” của Du Già này tuy thông với các “hành” khác, song trong các kinh, luận, tùy cơ của các pháp tướng nên có nhiều thuyết khác nhau. Như trong kinh Du Già Sư Địa bàn, chính tu các hành là Du Già, vì nó thâu nhiếp hết thảy hành tướng tương ứng. Trong kinh Nguyệt Đăng nói, tu ba mươi bảy bồ đề phận pháp là Du Già, vì trong này đối với hết thảy quả và hành đều thuận nhau, cho là tối thắng.
Trong kinh Đại Phân Biệt Lục Xứ bàn, con đường vận chuyển của Sa ma tha, Tỳ bát xá na bình đẳng là Du Già, vì chỉ quán như thế là chủ của mọi hành tướng. Trong kinh Hải Tuệ nói, tam ma địa là Du Già, vì tâm trụ phát ra hành rất mạnh mẽ. Luận Hiển Dương nói, bốn pháp: tín, dục, phương tiện, tinh tiến là Du Già; tác ý hoặc trí nói là phương tiện. Bốn pháp ấy thông nhau sinh ra hết thảy hành. Văn Sở Thành Địa chia thành chín đạo gọi là Du Già, vì hội lý trừ hoặc, quả vị thù thắng riêng biệt.
Tại thế gian hay xuất thế gian cố gắng tu hành không gián đoạn trên con đường giải thoát, thẳng tiến trong tư thế nhu nhuyễn. Tu Sở Thành Địa, tóm thâu các con đường đối trị trong sự tu tập là Du Già, ví nó nói lên sự yếu lược, tổng quát về việc tu. Có chỗ nói về sự liên hệ với các địa bị nhiếp thuộc vào vô điên đảo trí gọi là Du Già, vì trong hành tướng liên hệ với các pháp của các địa, trí không điên đảo là thù thắng. Có chỗ lại nói, phương tiện thiện xảo, hoặc chỉ phương tiện gọi là Du Già, vì tác ý và trí phát khởi ra hành là hơn cả, hoặc là chỉ cho chỗ tối sơ phát ngộ là hơn cả. Trong kinh Công Đức Thực Tính nói, các duyên khởi ra quán là Du Già, vì duyên khởi ra quán trí, đối việc siêu xuất sinh tử là quan yếu.
Trong Kinh Chính Hạnh nói, tám chi Thánh đạo như chính kiến v.v... là Du Già, vì chúng đạt tới thành Niết bàn, hạnh này là hơn cả. Kinh Tỳ Nại Gia nói, tu giới v.v... là Du Già, vì giới, định, tuệ học là nhân thù thắng. Trong Kinh Đại Nghĩa nói, tu hết thảy hạnh phận vị sai biệt của thế gian và xuất thế gian, đều là Du Già, vì giai vị chính hạnh thuận hợp nhau. Và như thế đều là nói chung về sự tu hành của Thanh Văn gọi là Du Già, vì trong sự tu hành chứng ngộ chung của Tam thừa, đây là hơn cả.
Trong Kinh Tuệ Đáo Bỉ Ngạn nói, quán không, tác ý là Du Già, vì phát khởi công hạnh lớn lao, đây là hơn cả. Như trong kinh kia có nói, Bồ Tát có đại Du Già là “không, tác ý”. Bồ Tát do không tác ý ấy, không bị sa xuống Thanh Văn địa và Độc Giác địa, cho đến có thể đạt tới chỗ thanh tịnh quốc độ chư Phật. Trong kinh kia lại nói về Bát Nhã Ba La Mật Đa, gọi là “Thắng Du Già”, vì nó chỉ đạo sự tu hành về Đại thừa và đây là thù thắng. Như kinh kia nói, pháp sở hữu của Bồ Tát trong các Du Già, Tuệ Độ Du Già là tối thượng, tối thắng. Trong kinh còn nói rộng hơn nữa là “vô đẳng đẳng” . Tại sao? Như thế biết rằng, Bát Nhã Ba La Mật Đa là pháp Du Già vô thượng. Chỗ khác lại nói, chỗ sở nhiếp của tuệ độ, vô phân biệt định gọi là Du Già, vì nó có thể phát khởi ra hết thảy công đức thù thắng.
Chỗ khác lại nói, Bồ Tát có từ bi, trí tuệ thù thắng, bình đẳng vận chuyển, gọi là Du Già, vì nó chứng được vô trụ đại Niết bàn. Các thuyết như thế là các thuyết “bất cộng hành” , gọi là Du Già, vì nó chứng được đạo Bồ đề của Phật. Như thế, trong các kinh luận nói về mọi thứ “hành”, đều gọi là Du Già. (Như trên đã nói đầy đủ về bốn loại nghĩa).
Nói về Quả của Du Già: Nghĩa là tất cả mọi loại quả đều thuận hợp nhau, hợp chính lý, thuận chính giáo, xứng chính nhân, đều nói là Du Già. Quả của Du Già này tuy thông các quả, nhưng trong các kinh luận, tùy cơ của các pháp tướng, nói ra nhiều thuyết khác lạ. Kinh Phân Biệt Nghĩa nói về lực vô úy, bất cộng Phật pháp gọi là Du Già, vì nó có ý nghĩa là hay hàng phục các ma, chế ngự mọi dị luận và thắng các Thừa khác. Trong Kinh Thù Thắng nói, chỗ chứng ngộ của Phật là vô trụ Niết bàn gọi là Du Già, vì nó có ý nghĩa là thời gian, dù cho đến tận cùng đời vị lai, nó vẫn vô sở trụ. Trong Kinh Đại Nghĩa nói, Như Lai địa vô phân biệt trí, đem tâm đại bi hóa độ chúng sinh là Du Già, vì nó có ý nghĩa là sự tự lợi lợi tha một cách không cùng tận.
Trong Kinh Biện Thuyết Du Già Sư Địa nói, Phật địa công đức, đều gọi là Du Già, vì nó có ý nghĩa là cùng pháp giới, không bao giờ dứt hết. Trong Kinh Phân Biệt Tam Thừa Công Đức nói, Tam thừa quả đức gọi là Du Già, vì nó có ý nghĩa là cùng ứng hợp với chính lý. Trong luận tán Phật nói, ba thân, ba đức đều là Du Già, vì nó có ý nghĩa là tất cả mọi quả đức, chúng không xa lìa nhau. Luận Tập Nghĩa nói, quả vị sở nhiếp, hữu vi, vô vi, các công đức tụ, đều là Du Già, vì nó có ý nghĩa là các quả vị từ đẳng chí đến cứu cánh đều hòa hợp nhau.
Trong các kinh luận nói về mọi quả đức đều là Du Già, ý nghĩa ấy đã nói rõ ở trên. Như thế, Thánh giáo cũng là Du Già. Vì nó xứng với chính lý, thuận với chính hạnh, dẫn tới chính quả. Nó có nghĩa là “chính thủ, Tam thừa quán hành” (nắm chắc nghĩa chân chính trong sự quán tưởng và hành trì của Tam thừa) là Du Già. Luôn luôn tiến tu, hợp lý, thuận hành, chứng được thắng quả. Cảnh và quả của luận này nó linh động cùng khắp. Lời của bậc Thánh nhân bao la như biển lớn, làm sao có thể nói đủ được! Du Già Sư Địa sợ khó thụ trì, nên mới nói qua để các hành giả tùy cơ tu tiến.
Các vị hành giả (các vị thực hành pháp môn Du Già) trong Tam thừa, tùy theo từ nơi văn (nghe), tư (suy nghĩ) và lần lượt tu tập, thực hành pháp môn Du Già, được từng phần, hoặc được đầy đủ, triển chuyển điều hóa cho các hữu tình gọi là Du Già sư. Hoặc các Như Lai chứng được đầy đủ pháp môn Du Già, tùy theo chỗ ứng cảm của người nghe, đem pháp môn Du Già này điều hóa cho các Thánh đệ tử, khiến họ lần lượt tu theo chính hạnh, gọi là Du Già sư.
Địa chỉ cho cảnh giới, là chỗ y cứ, chỗ thực hành, có nghĩa là nó nhiếp thuộc vào xứ sở. Là cảnh giới thực hành của các Du Già sư, gọi là “Địa”. Như khu đất của con long mã, chúng chỉ đi ở trong khu vực đó và không vượt ra ngoài được. Hoặc là, Du Già sư nương nơi chốn này, làm tăng trưởng các bạch pháp (pháp thanh tịnh), nên gọi là “địa”, như nơi trồng lúa chẳng hạn. Hoặc là, nơi Du Già sư nhiếp thuộc về phần trí tuệ, nương vào nơi này để hiện hành, nương vào nơi này để tăng trưởng, nên gọi là “địa”, như trân bảo địa.
Hoặc là, Du Già sư ở trong chỗ thực hành này, thụ dụng được các bạch pháp, nên gọi là “địa”, như ngưu vương địa. Hoặc là, các đấng Như Lai được gọi là Du Già sư, vì các ngài ở trong Du Già, dùng bình đẳng trí, thực hành bình đẳng tại khắp các cảnh giới không có hý luận, cũng như không trụ Niết bàn. Các ngài nhiếp thuộc nơi cảnh giới ấy, nên gọi là “địa”. Hoặc là, 17 địa nhiếp thuộc vào Du Già sư, như Quốc Vương địa chẳng hạn, nên gọi là Du Già Sư Địa.
Hỏi và đáp để quyết chọn tính và tướng của các pháp nên gọi là luận. Vì muốn các hành giả chứng được Du Già Sư Địa nên nói ra luận này. Do đó, mới đặt tên cho luận này, như đối pháp luận. Lại nữa, luận này không biện luận điên đảo về ý nghĩa Du Già Sư Địa, nên được đặt tên ấy, như kinh nói về thập địa. Lại nữa, luận này y chỉ vào các địa ấy, nên lấy đó làm hiệu, như hoa trồng trên đất phải nhờ vào nước. Bởi vậy, luận này được đặt tên là Du Già Sư Địa Luận.
Nay bàn về Thể của luận này, tóm tắt có 5 phần: Một là, bản địa phần: phần này, vừa sơ lược, vừa rộng rãi, chia thành mười bảy địa. Hai là, nhiếp quyết trạch phần: thâu nhiếp sơ lược và quyết chọn yếu nghĩa tiềm ẩn sâu xa trong mười bảy địa. Ba là, nhiếp thích phần: thâu nhiếp sơ lược những nghi tắc giải thích các kinh. Bốn là, nhiếp dị môn phần: thâu nhiếp sơ lược những danh nghĩa sai biệt của các pháp ở trong kinh. Năm là, nhiếp sự phần: thâu nhiếp sơ lược những sự nghĩa quan yếu trong Tam tạng.
Đứng trên phương diện đặt tên của buổi ban đầu, chắc chắn là không có sự lầm lẫn. Lại nữa, tất cả các pháp, không pháp nào không là Du Già Sư Địa. Vì Du Già Sư Địa dùng tất cả mọi pháp làm duyên y chỉ. Đây chỉ là sơ lược. Nói về con số 17 hay 17 địa là thâu nhiếp đầy đủ tất cả mọi văn nghĩa một cách lược tận. Bốn phần sau đều giải thích các văn nghĩa quan yếu trong 17 địa, chúng ta không lìa khỏi Du Già Sư Địa. Bởi thế, luận này dùng 17 địa làm tông yếu. Tuy nó suốt tỏ cả Thừa, Cảnh, Hành, Quả. Song, sự hỏi đáp, quyết chọn tính và tướng của mọi pháp nói trong luận này, ý là, vì hàng Bồ Tát nói ra, khiến cho tất cả đều được thiện xảo, tu thành Phật quả, lợi lạc vô cùng. Cho nên luận này thuộc về Luận Tạng của Bồ Tát, là vì muốn cho các Bồ Tát được thắng trí!
Giải thích: Câu hỏi đầu tiên, tại sao Du Già Sư Địa lại nói 17 địa, là câu hỏi tổng quát về tông yếu của bộ luận này.
Người hỏi, đầu tiên nghe các kinh nói về Du Già Sư Địa, chưa hiểu rõ được những ý nghĩa ấy, nên mới đặt câu hỏi này. Bàn về Du Già Sư Địa mà trong kinh thường nói chính là tu Du Già Sư Địa. Trong KInh Nguyệt Đăng cũng nói, tu tập Du Già Sư Địa. Như thế, rất nhiều chỗ nói, chẳng phải có một nơi nói. Trên kia đã bàn rộng rồi! Hoặc giả, người làm luận, trước tiên là tóm thâu những lời thỉnh cầu, suy luận ra luận thể có 5 phần, ghi hết tại tâm. Nay muốn vì các học đồ giải thuyết phân biệt, nên tự đặt ra câu hỏi, nói về nguyên nhân phát khởi, nên mới có câu hỏi, tại sao Du Già Sư Địa lại nói 17 địa? Nếu không như thế, trước tiên không có “lược thuyết”, làm sao lại đặt câu hỏi “tại sao” một cách dễ dàng như thế?
Lại nữa, đại khái người hỏi phải có 5 duyên cớ: Một là, không hiểu mới hỏi. Hai là, nghi ngờ mới hỏi. Ba là, thí nghiệm mới hỏi. Bốn là, khinh xúc mới hỏi. Năm là, vì muốn lợi lạc hữu tình mới hỏi. Trong trường hợp này thuộc về duyên cớ thứ 5, vì lợi lạc cho các loài hữu tình nên mới làm ra luận này. Nói về 17 địa, tức là nói thâu tóm tông yếu Du Già Sư Địa, đại lược có 17 địa. Nếu đặt để rộng rãi hơn thì địa vị vô biên và phận vị sai biệt trong mỗi địa, ý nghĩa của nó cũng vô biên. Như thế, một lần chuyển đề là một lần có tổng vấn và tổng đáp.
Giải thích: Do nhân duyên gì lại hỏi: Những gì là 17 địa? Tuy nghe được tổng số, nhưng chưa hiểu rõ tên từng địa, nên phải hỏi lại. “Ôn đà nam”, có nghĩa là trước tiên, tự mình tóm lược thành bài tụng để giải đáp, nội dung bài kệ tụng giản lược nhưng tập hợp tên các địa, lưu lại cho các học giả, nên gọi là “Ôn đà nam”. Câu “năm thức tương ứng” tức là “Ngũ thức thân tương ứng địa”. Chữ YÙ là “ý địa”. Câu “có tầm có tứ... ba địa”, tức là hữu tầm hữu tứ địa, vô tầm duy tứ địa và vô tầm vô tứ địa. Riêng tầm và tứ chiếm 3 địa.
Câu “Tam ma địa đều” có nghĩa là tam ma địa đều gọi là tam ma ế đa địa. Chữ “Phi” là chẳng phải. Chẳng phải Tam ma địa và cũng chẳng phải là Tam ma ế đa địa. Đây là một tướng, nhưng riêng địa danh, chẳng phải lý thuyết có thể nói hết được. Như thế đây là hai tên mà nghĩa của chúng có rộng có hẹp vậy. Tam ma địa là trạng thái thông cả định và bất định và nó chỉ trụ tại nơi hữu tâm. Tam ma ế đa là trạng thái thông cả hữu tâm vị và vô tâm vị và nó chỉ hạn cuộc tại định. (Vấn đề này sau sẽ giải rộng thêm). Câu “như thế đủ ba thừa”, có nghĩa là do văn, tư, tu địa như thế, hoặc do các địa ở trên như thế, được đầy đủ cả 3 thừa. Còn “hữu dư y và vô dư y” mỗi một tên riêng sẽ được giải thích rộng ở sau.
*

Luận viết: Một là, ngũ thức thân tương ứng địa. Hai là, ý địa. Ba là, hữu tầm hữu tứ địa. Bốn là, vô tầm duy tứ địa. Năm là, vô tầm vô tứ địa. Sáu là, tam ma ế đa địa. Bảy là, phi tam ma ế đa địa. Tám là, hữu tâm địa. Chín là, vô tâm địa. Mười là, văn sở thành địa. Mười một là, tư sở thành địa. Mười hai là, tu sở thành địa. Mười ba là, Thanh Văn địa. Mười bốn là, Độc Giác địa. Mười lăm là, Bồ Tát địa. Mười sáu là, hữu dư y địa. Mười bảy là, vô dư y địa, gọi là Du Già Sư Địa.
Giải thích: Nay trình bày rộng rãi về các địa danh để đáp lại câu hỏi trước. Câu “ngũ thức thân tương ứng địa”, nghĩa là, năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; năm thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức. Chúng không cùng nhau nương tựa một chỗ, như mắt..., không bị các thức khác y chỉ. Chúng là “thân y” (y chỉ vào sự vật thân cận). Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có lợi và độn, Thức có sáng và mờ. Chúng còn là “đồng thời y”. Chúng đồng thời đều cùng có, chứ không như ý căn... Bởi thế, năm thức dùng năm căn nêu tỏ cái tên riêng của chúng, cũng như mầm lúa, như tiếng trống v.v... có sự riêng biệt, cho nên gọi là năm thức.
Do chỗ nương tựa của chúng là căn. Căn có hình tướng ngăn ngại. Nhưng chúng quyết định không thể xa lìa chỗ nương tựa của chúng là thân. Thân phải chịu nhận lấy nên gọi là “thân”. Thân y vào nghĩa của thân mà nói như lục thức thân (thân là nơi nương tựa của 6 thức), lục tư thân (thân là nơi nương tựa của 6 sự suy tư). Y vào ngũ thức thân, kiến lập ra Địa này nên gọi là “tương ứng”. Như trong luật nói, vua tương ứng với lời bàn của vua, giặc tương ứng với lời bàn của giặc. Y vào vua, y vào giặc mà hưng khởi ra lời bàn luận. Đây cũng như thế.
Tuy trong Địa này phân biệt ra nhiều pháp, nhưng năm thức làm chủ nên nói riêng. Ngũ thức thân tương ứng với tâm phẩm, gọi là “tương ứng”. Ở trong Địa này, tuy có nói rõ nhiều pháp, nhưng đem sự trội hơn của tâm, tâm sở mà phân biệt. “Tương ứng” có nghĩa là nhiếp thuộc. Vì trong Địa này nói về pháp nhiếp thuộc của Ngũ thức thân, tức là chỗ sở y, sở duyên của tự tính. Giúp bạn làm nên sự nghiệp là ý nghĩa của chữ “tương ứng”. Tùy kỳ sở ứng (tùy theo chỗ ứng hợp của chúng). Cũng có ý nghĩa là thông suốt. Đây chỉ nói sơ lược mà thôi!
Nay nói về Ý địa: lục thức, thất thức, bát thức, đồng y vào Ý Căn. Lược bỏ “thức thân tương ứng” đi, mà chỉ nói chữ “Ý”. Trong thực nghĩa môn có tám thức, nhưng trong tùy cơ môn chỉ có sáu thức. Thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cùng nhiếp thuộc vào căn thứ sáu. Tên đứng vào chỗ sở y của nó là phi sắc. Nếu chúng không cần “thân”, thì “tâm” bị gánh chịu, nên không nói đến đến “thân” nữa. “Tương ứng” như trên đã nói. Thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám, tuy đều cùng có nghĩa như tâm, ý, thức, nhưng, tâm pháp, ý xứ, nhiếp thuộc vào ý thức. Song, nghĩa chữ “Ý”, chỉ nói là “Ý”, vì nó có sự suy nghĩ tính lường, nên nó nhiếp thuộc vào “ý căn”. Thức thứ tám là thức giữ gìn hạt giống, nên nghĩa “tâm” của nó thiên về phía mạnh. Thức thứ sáu, là thức liễu biệt cảnh giới cùng khắp, nên nghĩa ‘thức” của nó thiên về phía mạnh. Cho nên không nói tâm địa, thức địa, thân và tương ứng. Đây chỉ nói lược mà thôi. Nghĩa chữ “Địa” đã nói ở trên.
Việt dịch: Thích Tâm Châu - Chú thích: Bài kệ gồm 24 câu này được coi như là bài tựa của bộ luận. Đầu tiên kính lễ Phật là bậc đại giác Thế Tôn của nhân, thiên, vẹn tròn phúc đức và trí tuệ. Pháp có đầy đủ văn nghĩa chân thực, vi diệu và vô thượng. Tăng là những bậc Hiền thánh hữu học, vô học hiểu biết một cách chân chính. Tiếp đến, kính lễ luận chủ Di Lặc (Maitreya), Trung Hoa dịch nghĩa là Từ Thị, tên là A Dật Đa (Ajita), Trung Hoa dịch nghĩa là Vô Năng Thắng. Ngài (Di Lặc) muốn cho chúng sinh được lợi lạc, nên thâu tóm những yếu nghĩa trong các kinh, nói ra năm phần trong bộ luận Du Già. Kính lễ Bồ Tát Vô Trước (Asanga), do định lực lên cung trời Đâu Suất, nghe Bồ Tát Di Lặc giảng bộ luận Du Già, đem về phổ biến cho thế gian. Kính lễ tất cả các bậc Thánh được thấm nhuần trong biển pháp của Bồ Tát Vô Năng Thắng, đã tuôn chảy mưa pháp cam lộ cao tột này cho tất cả chúng sinh. Các vị thấm nhuần mưa pháp Du Già, bản thân hưởng được những pháp âm mỹ diệu, còn đem lại lợi lạc cho thế gian. Mưa pháp này tuôn rải những câu, những chữ vi diệu, như bông hoa tỏa hương một cách bình đẳng, đặc biệt làm thấm mát những nhân tố tu hành, thai sinh từ gốc cây Mưu Ni mà ra. Có nghĩa là trong ba hội Long Hoa của đức Di Lặc, những vị được chứng ngộ đều là những vị tu hành trong giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mưu Ni. Tới đây, tác giả khen ngợi luận Du Già này như hoa sen, như kho báu, như biển lớn, trong đó, trình bày và giải thích văn nghĩa rộng rãi của các Thừa, không thiếu sót. Và tác giả tự lượng sức mình, chỉ xin giải thích ít phần trong bộ luận Du Già này mong cho chính pháp còn mãi, đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Ba Thừa: Ba cỗ xe chuyên chở giáo pháp của đức Phật, tùy theo căn cơ tu chứng của các hành giả, tức là của các bậc Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Bổ đặc già la (Pudgala): Xưa kia, Trung Hoa dịch nghĩa là “Nhân” (người) hay “chúng sinh”, nay dịch nghĩa là “xác thủ thú”: nghĩa là cái nhân tố, luôn luôn nhận chịu cái quả sinh tử luân hồi trong các cõi: thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Nhị thừa: Thanh Văn và Duyên Giác. Ba cõi: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Tập khí: mê lầm được phát sinh ra bởi những hơi hướng huân tập ẩn nấp từ lâu. Thực tướng: Tướng chân thực, không hư vọng, không chuyển biến, tức bản thể của vạn pháp. Pháp tính, chân như, thực tướng, danh xưng khác nhau, nhưng cùng chỉ cho bản thể mà thôi. Thực tướng còn có những danh xưng khác nữa như: nhất thực, nhất như, nhất tướng, vô tướng, pháp thân, pháp chứng, pháp vị, Niết bàn, vô vi, chân đế, chân tính, chân không, thực tính, thực đế, thực tế,... Biến Kế Sở Chấp tính: Phàm phu suy lường sự vật một cách mê lầm, giả cho là thực, như đêm tối thấy khúc dây thừng tưởng là con rắn, v.v... Y Tha Khởi tính: Nương tựa vào các nhân duyên khác mà sinh ra vạn pháp. Chủng tử nơi A lại gia thức là nhân tố thứ nhất, nó nhờ thêm các trợ duyên khác mà tạo thành. Bản chất của dây thừng là những sợi của cây gai, nhờ những công phu khác mới hình thành dây thừng. Viên Thành Thực tính: Chỉ cho tính chân thực, thành tựu viên mãn của sự vật, tức là thể tính của các pháp hữuvi. Như thực tính của dây thừng là cây gai. Nhi đế: Hai sự nhận thức về sự thực của sự vật đối với người thế tục và người có thánh trí, đó là tục đế và chân đế. Người thế tục nhận sự tướng của sự vật là thật, nên gọi là “tục đế”. Người có thánh trí nhận thức lý tính chân thực về sự tướng của sự vật ấy là không thực nên gọi là “chân đế”. Nhị tạng: 1. Thanh Văn tạng: Nói về giáo, lý, hành, quả của Thanh Văn và Duyên Giác. 2. Bồ Tát tạng: Nói về giáo, lý, hành, quả của Bồ Tát. Tam tạng (Tripitaka): Ba kho tàng giáo pháp của Phật giáo. Kinh tạng (Tu đa la: Sutrapitaka): Lời dạy của Phật. Luật tạng (Tỳ nại gia: Vinayapitaka): các lời khuyên răn, diệt trừ lỗi lầm của ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Luận tạng (A tỳ đạt ma: Abhidharmapitaka): Dùng thắng trí quán chiếu về chân lý của sự vật. Hay là, dùng thắng trí bàn giải về các pháp. Kinh hướng về định hoc. Luật hướng về giới học. Luận hướng về tuệ học. Duy thức (Vijanãnamatravàda): Vạn pháp chỉ do Thức biến hiện. Thức đây chỉ cho 8 thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại gia thức. Năm thú: 5 cõi phải đi tới, theo nhân quả nặng hay nhẹ đã tạo: địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, nhân và thiên. Ba đại khổ: Gây nhân quả xấu phải chịu sự đau khổ cùng cực trong ba cõi địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Hoặc bị ba thứ ngăn che chính đạo, làm hại thiện tâm: phiền não, nghiệp chướng và quả báo. Tam bồ đề (Sambodhi): Quả vị chính đẳng giác. Bồ Tát Long Mãnh (Nàgàrjnna), xưa dịch là Long Thọ, Long Thắng, đệ tử của ngài Ca Tỳ Ma La Tôn Giả, là một trong các vị Luận sư nổi tiếng trong Đại thừa giáo. Theo kinh Đại Trang Nghiêm Tam Muội thì trong thời quá khứ, Bồ Tát Long Mãnh thành Phật hiệu là Diệu Vân Tự Tại Vương Như Lai và nay ngài hiện ở ngôi vị Sơ Địa tức là Hoan Hỷ Địa hay là Cực Hỷ Địa. Thánh Đề Bà (Àryadeva): Sáng tác bộ Bách Luận. Bồ Tát Đề Bà là một vị trong các đại Luận sư, người đương thời tôn xưng ngài như bậc Thánh nên gọi là Thánh Đề Bà. Bồ Tát Vô Trước (A Tăng Già: Asanga): Ngài sinh tai Kiền Đà La, Ấn Độ, sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng một ngàn năm. Ngài xuất gia trong bộ phái Di Sa Tắc, sau tin tưởng về Đại thừa. Ngài là vị Tổ trong Pháp Tướng Tông. Vào một đêm, ngài nhập định lên cung trời Đâu Suất, nghe đức Di Lặc thuyết luận Du Già, luận Trang Nghiêm, luận Đại Thừa, luận Trung Biên Phân Biệt, rồi ngài trở lại thuyết pháp cho đại chúng. Bất tương ứng hành: Duy Thức học có tâm, tâm sở pháp và sắc pháp, mỗi một pháp trong ba loại này, hành động của chúng không ứng hợp với nhau, nên gọi là “bất tương ứng hành pháp”. Bất tương ứng hành pháp có 24 thứ, xem trong Duy Thức sẽ rõ. Uẩn, xứ, giới...: Tức 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên, duyên sinh, duyên khởi, 4 đế (khổ, tập, diệt, đạo). Bốn tính: Trong kinh Phật Bản Hạnh nói Bồ Tát có 4 tính hạnh: 1. Tự tính hạnh: Bồ Tát xưa nay vẫn đầy đủ đức tính hiền lương, hiếu thuận, tín kính và 10 điều thiện. 2. Nguyện tính hạnh: Bồ Tát phát tâm nguyện thành đạo, thành Phật. 3. Thuận tính hạnh: Bồ Tát thuận theo 6 Ba la mật mà tu hành. 4. Chuyển tính hạnh: Do công phu tu hành, chuyển phàm thành Thánh. Bốn pháp: Trong Pháp bảo có 4 loại: Giáo pháp, lý pháp, hành pháp và quả pháp. Trong kinh Đại Thừa Ký Pháp nói, Bồ Tát có 4 pháp tu hành: 1. Không bỏ tâm Bồ đề. 2. Không bỏ thiện tri thức. 3. Không bỏ sự cố gắng chịu đựng về ái, lạc. 4. Không bỏ nơi an tịnh A lan nhã. 37 Bồ đề phận pháp: 4 niệm xứ, 4 chính cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 bồ đề phận và 8 thánh đạo. Tỳ bát xá na (Samatha): Đây chỉ về 2 môn định: Samatha là Chỉ, Vipassana là Quán. Tam ma địa (Samàdhi): Định, chính thụ. Chín đạo: Theo Phật học đại tự điển, chín đạo tức chỉ cho 9 nơi cư trụ của các loài hữu tình: 1. Nơi cư ngụ của Người và Trời trong Dục giới. 2. Nơi cư trụ của Phạm Chúng thiên. 3. Nơi cư trụ của Cực Quang thiên. 4. Nơi cư trụ của Biến Tịnh thiên. 5. Nơi cư trụ của Vô Tưởng thiên. 6. Nơi cư trụ của Không Vô Biên Xứ thiên. 7. Nơi cư trụ của Thức Vô Biên Xứ thiên. 8. Nơi cư trụ của Vô Sở Hữu Xứ thiên. 9. Nơi cư trụ của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thiên. Vô đẳng đẳng (Asamasama): Tôn hiệu của Phật đạo và Phật. Phật đạo siêu tuyệt không gì có thể sánh bằng được nên gọi là “vô đẳng”. Chỉ có Phật với Phật, tức là chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể sánh bằng được nên gọi là “đẳng”. Bất cộng hành: Sự thực hành của mỗi thuyết không như nhau, nhưng chung cuộc cùng chứng đạo quả Bồ đề như nhau. Ba thân ba đức: Ba thân: pháp thân, báo thân và ứng hóa thân. ba đức: pháp thân, bát nhã và giải thoát. Đẳng chí: Biệt danh của định. Trong định, thân tâm quân bình (bình đẳng) an hòa gọi là “đẳng”. Do định đạt tới chỗ bình đẳng gọi là “chí”. 17 địa: Luận Du Già thuyết minh về 17 cảnh (pháp môn) sở quán gọi là 17 địa: 1. Ngũ thức thân tương ứng địa. 2. Ý địa. 3. Hữu tầm hữu tứ địa. 4. Vô tầm hữu tứ địa. 5. Vô tầm vô tứ địa. 6. Tam ma ế đa địa (Samàhita: đẳng dẫn: định lực quân bình dẫn tới các công đức). 7. Phi tam ma ế đa địa. 8. Hữu tâm địa. 9. Vô tâm địa. 10. Văn sở thành địa. 11. Tư sở thành địa. 12. Tu sở thành địa. 13. Thanh Văn địa. 14. Độc giác địa. 15. Bồ Tát địa. 16. Hữu dư y địa. 17. Vô dư y địa. Thập địa: 1) Hoan hỷ địa. 2) Ly cấu địa. 3) Phát quang địa. 4) Diêm tuệ địa. 5) Nan thắng địa. 6) Hiện tiền địa. 7) Viễn hành địa. 8) Bất động địa. 9) Thiện Tuệ địa. 10) Pháp vân địa. Đây là thập địa thuộc Đại thừa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì chúng thâu tóm các công đức hữu vi và vô vi dùng làm tự tính, cùng làm chỗ nương tựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hành và hay sinh trưởng, cho nên gọi là “địa”. Ôn đà nam, có chỗ còn phiên âm là Ưu đà na (Udàna): Trung Hoa dịch nghĩa là “tự thuyết”: không có ai hỏi, tự mình thuyết ra.