A-Dục Vương Padmavati - A Dục, Một Vị Vua Phật Tử

*
Hoàngđế A-dục trị vì nước Ấn vào thế kỷ thứ III trướcTây lịch và cũng là một trong những nhân vật sáng chói nhấttrong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi tiếng nhấtcủa triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thểbán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông,văn hóa được phát triển cao độ và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử nước Ấn mà sử liệu thật phong phú ghi chépbằng chữ viết còn lưu lại đến ngày nay. Nghệ thuật tiêubiểu và đặc trưng nhất cho nền văn hóa Ấn độ nói chungcũng đã phát sinh trong thời kỳ này.

Riêngđối với Phật giáo, hoàng đế A-dục là một Phật tử lừngdanh nhất, và ông đã quy y sau khi chinh phạt được lãnhthổ Kalinga bằng những trận chiến thật hãi hùng. Ông hếtsức nhiệt tâm trong việc hoằng Pháp và đã truyền bá Phậtgiáo ra xa hơn vùng thung lũng sông Hằng, vượt ra ngoài biêngiới Ấn độ, nhất là về hướng tây bắc tức là cả vùngcận đông, trung đông cho đến biên giới châu Âu.

Các nguồntư liệu

Bạn đang xem: A-Dục Vương Padmavati - A Dục, Một Vị Vua Phật Tử

Triềuđại A-dục là một trong những triều đại hiếm hoi tronglịch sử cổ đại của Ấn độ đã lưu lại sử liệu vừachính xác lại vừa phong phú. Tuy thế, mãi cho đến năm 1837các sử gia và các học giả Tây phương và cả Ấn độ mớibắt đầu biết đến giai đoạn lịch sử này, nhờ vào vàosự tò mò của một nhân viên hành chính thật bình dị củathành phố Calcutta là James Princep. Ông là người đầu tiêntìm cách giải đoán những chữ ghi khắc trên hai cột trụbằng đá, một ở Delhi và một ở Allahabad miền bắc Ấnthuộc tiểu bang Uttar Pradesh. Trên hai trụ đá này ông đãđọc được tên một vị vua là Devanampiya. Khi tra cứu cácsử liệu thì James Princep thấy ở Tích lan có một vị vuamang tên là Devanampiya Tissa. Tuy nhiên James Princep vẫn còn hoangmang và ông nghĩ rằng có thể có một sự nhầm lẫn nào đómà ông không biết vì ông không tin là vị vua có tên ghi khắctrên trụ đá ở miền bắc Ấn lại là một vị vua Tích lan.

Mãicho đến năm 1915, một kỹ sư hầm mỏ người Anh tên là C.Beadon tìm thấy ở vùng Maski miền nam nước Ấn một trụđá khác có khắc chữ. Trên trụ đá này người ta đọc đượctên của một vị vua thuộc vào triều đại Maurya là DevanampiyaPiyadasi, vương hiệu là Azoka (A-dục). Kể từ đó người tamới biết là tên nhà vua Devanampiya ghi khắc trên các trụđá đã được khám phá trước đây và nhà vua mang vươnghiệu A-dục chỉ là một người. Thật ra hoàng đế A-dụccó nhiều tên gọi khác nhau, trong số này tên gọi Devanampiyalại trùng hợp với tên của một vị vua Tích lan và vì thếđã làm cho viên chức hành chính James Princep phải hoang mang.Từ những khám phá trên đây các sử gia dần dần khám phára lịch sử của một trong những triều đại xưa nhất vàsáng chói nhất của nước Ấn.

Tàiliệu bằng các ngôn ngữ Tây phương về vua A-dục thật hếtsức phong phú, bài viết ngắn này không có tham vọng tóm lượcnhững công trình nghiên cứu của các sử gia, các học giảvà các nhà khảo cổ mà chỉ muốn nêu lên một sự kiệnlịch sử, một trường hợp điển hình về sự liên hệ giữachính trị và Phật giáo để suy tư và tham luận mà thôi. 

Cácnguồn tư liệu đáng tin cậy nhất giúp các học giả và sửgia nghiên cứu và tìm hiểu về hoàng đế A-dục là các vănbản ghi chép vào thời bấy giờ. Các văn bản này gồm cóhai loại : loại thứ nhất là các văn kiện chính thức củatriều đình ghi khắc trên đá và loại thứ hai là các tưliệu và các di tích văn hóa không mang tính cách hành chính.

 a)Các văn kiện ghi khắc trên đá

Cácloại văn kiện ghi khắc trên mặt đá cũng gồm có hai loại: loại thứ nhất là các chỉ dụ được khắc một cách trịnhtrọng trên các trụ đá hoặc trên các vách đá, loại thứhai gồm các văn bản đủ loại, ngoài các chỉ dụ vừa kểcủa triều đình. 

Chỉdụ là các văn kiện do triều đình công bố hay các bản tuyênngôn của hoàng đế A-dục ban ra cho toàn dân. Nội dung củacác chỉ dụ rất minh bạch và thật chi tiết, chứng tỏ hoàngđế A-dục là người rất cẩn thận, giải thích đườnghướng chính trị của mình thật cặn kẽ cho dân chúng đượcbiết. Các chỉ dụ được ghi khắc bằng các loại ngôn ngữđịa phương thời bấy giờ là brahmi và karosti, kể cả tiếngHy lạp và tiếng araméen, một loại ngôn ngữ rất xưa thuộccác vùng Trung đông và Phi châu.

Ngoàicác chỉ dụ vừa kể còn có nhiều văn bản không mang tínhcách hành chính, đó là các tư liệu ghi chép công đức củahoàng gia và quan chức, chẳng hạn như các việc cúng dường,các cuộc hành hương, các dịp lễ trọng đại, những cuộcgặp gỡ và giao tiếp chính thức giữa triều đình và tăngđoàn Phật giáo...

*
*
Asoka'sedict in Greek and Aramaic at Kandahar

 b)Các nguồn tư liệu mang đặc tính văn hoá 

Córất nhiều câu chuyện và sự tích truyền tụng trong dân gianhàm chứa tính cách đạo đức và răn dạy gọi là avadanađược ghi chép cẩn thận và còn lưu lại đến ngày nay. Thôngthường các nhân vật chính trong các câu chuyện ấy là cácvị thánh nhân, các vị đại sư gương mẫu... Tuy nhiên cũngcó nhiều câu chuyện mà nhân vật chủ động là hoàng đếA-dục, những việc làm của ông được mô tả trong các câuchuyện mang dụng ý làm gương cho vua chúa thuộc các vươngquốc đương thời, các loại chuyện này gọi chung là asokavadana.

Cácvị đại sư Trung quốc như Pháp Hiển (đầu thế kỷ thứV), Huyền Trang (thế kỷ thứ VII) khi sang Ấn độ tu học cũngcó kể chuyện về hoàng đế A-dục trong nhật ký của họ.Tuy nhiên các câu chuyện do họ thuật lại cũng như nhữngtư liệu khác về hoàng đế A-dục được ghi chép muộn saunhiều trăm năm, không mang nhiều giá trị trên phương diệnsử học vì hàm chứa quá nhiều sự kiện mâu thuẫn, lý docũng dễ hiểu vì phần lớn dựa vào truyền thuyết và khôngphải là những nghiên cứu sử học. 

Mộtsố kinh luận (Tanjur) của Phật giáo Tây tạng và các sáchcủa sử gia Phật giáo nổi tiếng người Tây tạng là JetsunTaranatha (thế kỷ XVII) cũng có đề cập đến hoàng đế A-dục.Ngoài ra văn khố của xứ Khotan cũng có lưu trữ một sốtài liệu giá trị. Tuy nhiên chính trong các pho kinh sách khổnglồ của Phật giáo Tích lan người ta đã tìm thấy nhiềutư liệu và sử liệu phong phú và đầy đủ chi tiết hơnhết, và điều đó cũng dễ hiểu vì hoàng đế A-dục làngười đã truyền bá Phật giáo vào phần đất này. Ngoàicác tư liệu bằng chữ viết, khoa nghiên cứu các đồng tiềncổ của đế quốc Maurya cũng mang lại nhiều dữ kiện quýgiá, vì dưới triều đại của hoàng đế A-dục không phảichỉ có Phật giáo và văn hóa đã phát triển mạnh mà kinhtế cũng rất phồn thịnh, và đồng tiền do đế quốc Mauryaphát hành được sử dụng rộng rãi và phổ biến khắp nơi.

Nước Ấnvà đế quốc Maurya trước triều đại A-dục

Trongsuốt lịch sử phát triển của Phật giáo trên đất Ấn,lãnh thổ Ma-kiệt-đà (Magadha) đã chiếm giữ một vị thếquan trọng. Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế, lãnh thổnày đã từng là một vương quốc lớn, hùng mạnh, ngày naythuộc vào tiểu bang Bihar, một tiểu bang rất nghèo. Thủ đôcủa vương quốc Ma-kiệt-đà là thành Vương xá (Rajagriha),nhưng về sau được dời về Hoa Thị thành (Pataliputra), têngọi ngày nay là Patna. Công cuộc khai quật khảo cổ vào năm1912 tại Hoa Thị thành phát hiện nhiều di tích của một dinhthự thật to lớn, có lẽ là hoàng cung của đế quốc Maurya.

Vươngquốc Ma-kiệt-đà được đặt dưới sự cai trị của triềuđại Nan-đà (Nanda) trước khi các đạo quân của AlexandreĐại đế của đế quốc Macédoine ngày nay là Hy lạp, tiếnchiếm các lãnh thổ Ấn độ vào những năm -327 đến -326.Có một người vô danh nhưng nhiều « khí phách », mà nguồngốc và xuất xứ không được lịch sử ghi chép rõ rệt,đã đứng lên hô hào chống lại ngoại xâm, một số tư liệucho biết người này thuộc vào một giai cấp thấp trong xãhội, một số khác thì lại cho là con của một hoàng thântrong dòng họ Nan-đà, về phần các truyền thuyết Phật giáothì cho người này là con cháu thuộc một chi của dòng họThích ca (Shakya) đã rời bỏ thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu)khi thành này bị vua xứ Kiêu-tát-la (Kosala) tàn phá. Ngườinhiều « khí phách » vừa kể nghĩ rằng trước nạn ngoạixâm do Alexandre Đại đế chủ xướng thì cần phải thốngnhất xứ sở, nhưng ông không thuyết phục được hoàng triềuNan-đà nên bỏ trốn lên vùng tây bắc nước Ấn. Nơi đâyông thành lập một đạo quân và nhờ có một chiến lượcgia nổi tiếng thời bấy giờ giúp sức, vị này sinh sốngtại thủ phủ Taxila thuộc lãnh thổ của Alexandre Đại đế,một nơi chỉ cách Islamabad thủ đô của xứ Pakistan ngày nayvài cây số. Ông kéo quân chiếm lại nhiều vùng của nướcẤn nhưng đã bị Alexandre Đại đế chiếm giữ và sau đóthừa thế tiến vào vương quốc Ma-kiệt-đà lật đổ hoàngtriều Nan-đà vào năm -313. Vị anh hùng này tên là CandraguptaMaurya, ông lên ngôi và sáng lập ra triều đại Maurya.

Suốttrong 25 năm trị vì, hoàng đế Candragupta Maurya tóm thâu gầnhết vùng bắc Ấn để mở rộng thêm bờ cõi. Về phươngdiện ngoại giao thì ông giao hảo với các quốc gia thuộcÂu châu trong vùng Địa Trung Hải, nhất là ký hòa ước vớivị hoàng đế Seulokos người nối ngôi Alexandre Đạiđế. Sứ thần của hoàng đế Seleukos là Megasthenes đượcgởi sang Hoa Thị thành, vị này là một học giả lại vừalà nhà văn nên nhân dịp đó đã trước tác một bộ sáchtựa là Indus, gồm bốn quyển nghiên cứu về văn hóa, lịchsử, địa lý, thực vật và các giống động vật của Ấnđộ, bộ sách này là một tư liệu quý giá góp phần tìmhiểu về đế quốc Maurya thời bấy giờ. Hoàng đế Candraguptakhi về già và trước khi qua đời đã theo đạo Jaïn, mộttín ngưỡng rất lâu đời có trước cả Phật giáo, đạoJaïn chủ trương khổ hạnh, bất bạo động và tuyệt đốicấm sát sinh.

Ngườicon của Candragupta lên nối ngôi tên là Bindusara. Người tatìm thấy rất ít tư liêu nói về vị hoàng đế kế nghiệpnày, chỉ biết ông là một người rất sùng kính Ấn giáo,và về mặt cai trị thì có công dẹp được một vài cuộcdấy loạn. Ông trị vì đế quốc Maurya được khoảng 25 năm.A-dục là con thứ của vị hoàng đế này, vì thế trên nguyêntắc không phải là hoàng tử kế nghiệp.

Tuổi trẻcủa hoàng đế A-dục

Cáctrụ đá và bia đá không thấy ghi chép gì cả về thời kỳcòn trẻ của hoàng đế A-dục, số tư liệu hiếm hoi ngoàiPhật giáo liên quan đến phả hệ của ông cũng có nhiểuđiểm thiếu chính xác và mâu thuẫn. Các học giả đều phảidựa vào các kinh sách Phật giáo để tìm hiểu về thời kỳcòn trẻ của A-dục.

Tuổithiếu thời của cậu bé A-dục hình như không được hạnhphúc lắm vì bị vua cha ghét bỏ, và theo một vài kinh sáchthì lý do là vì cậu có một hình tướng xấu xí. Tuy thế,có một nhà tu khổ hạnh tên là Ajivika đã tiên đoán và chomẹ cậu biết là tương lai của cậu sau này sẽ thật sángchói. Một vài tư liệu cũng cho biết là giáo phái khổ hạnhcủa nhà tu này đã tạo nhiều ảnh hưởng đối với A-dụckhi ông còn trẻ.

Theocác học giả thì vương hiệu A-dục xuất hiện rất trễ,ít khi thấy ghi khắc trên các trụ đá và mặt đá. Thôngthường trong các chỉ dụ và văn bản người ta chỉ thấyghi khắc tên ông là « Devanampya », chữ này có nghĩa là «Người yêu quý của các vị trời ». Kinh sách Phật giáo thìthường gọi tên ông là « Dhammasoka » (Dhamma là Đạo pháp,Dhammasoka có nghĩa là A-dục của Đạo pháp hay Người đạohạnh A-dục), hoặc có khi ghi thẳng tên ông là Piyadassi. Ngườita có tìm thấy một vách đá có khắc một chỉ dụ khôngquan trọng lắm nhưng đã ghi đầy đủ tên của ông như sau: Devanampiyasa Pidayasino Asokaraja, và trong một chỉ dụ khácthì mang tên là Raja magadhe có nghĩa là Vua của xứ Ma-kiệt-đà.

Cónhiều bảng ghi chép về lý lịch và tiểu sử của hoàng đếA-dục, trong số này có một bảng khắc đáng tin cậy hơncả cho biết ông sinh vào năm -299 tại Hoa Thị thành, là emkhác mẹ với hoàng tử sẽ thừa kế vua cha là Susima (hay Sumana).A-dục còn có một người em cùng mẹ, nhưng tên thì các tưliệu ghi chép không giống nhau.

Tronglứa tuổi thanh niên hình như A-dục có lưu ngụ một thờigian ở Taxila, nhưng không rõ lý do vì sao ông đến đây. Cóthể ông đã cầm quân đến đây để dẹp nội loạn hay cũngcó thể đã được vua cha gởi đến với tư cách là phó vươngđể cai trị vùng này, dù sao thì cũng không có sử liệu nàoghi rõ. Hình như ông cũng từng là phó vương ở Aventi, mộtvùng lãnh thổ phía tây của nước Ấn.

Nếusự hiện diện của ông tại các nơi như Taxila và Aventi khôngđược xác nhận một cách chắc chắn, thì trái lại tấtcả các tư liệu đều có ghi chép về sự kiện ông làm phóvương suốt mười năm tại Ujjain, một nơi thuộc vùng trungtâm nước Ấn, ngày nay đã trở thành một trong bảy thànhphố thánh địa. Ông nhậm chức phó vương Ujjain vào năm -280.Theo Phật-đà Cồ-sa (Buddhaghosa, thế kỷ thứ V), một vịđại luận sư của tông phái Thượng tọa bộ thì chính A-dụcđã mang quân chinh phạt nơi này, nhưng theo kinh sách Pali thìvua cha là Bindusara đã gởi ông đến đây để nhậm chức. 

TạiUjjain, A-dục cưới một người vợ tên là Vedisa-devi, con gáicủa một doanh nhân làm chủ tịch hiệp hội các thương gia.Đám cưới tổ chức theo đúng « nghi lễ cổ truyền », cónghĩa là mang tính cách chính thức. Khi đến Ujjain A-dục cólưu ngụ một thời gian trong dinh thự của vị doanh nhân giàucó này. Bà Vedisa-devi sinh được hai con, một trai và một gái.Hai người con này về sau đã xuất gia và được gởi sangTích lan để hoằng Pháp và truyền bá văn hóa Ấn độ.

Tuynhiên một số sử gia Tây phương nghiên cứu vể hoàng đếA-dục trước đây đã xem cuộc hôn phối đó không mang tínhcách chính thức, vì thế hai người con cũng không được xemlà chính thống. Sở dĩ có sự hiểu lầm này là vì các sửgia vừa kể mang định kiến sai lầm là không tin vào các nguồnsử liệu có nguồn gốc kinh sách Tích lan và đồng thời cũngsuy đoán theo quan niệm Tây phương về sự kiện A-dục rờiUjjain mang theo hai con trở về kinh đô Hoa Thị thành nhưng lạibỏ bà vợ là Vedisa-devi ở lại. Xã hội Ấn độ cổ đạiphân chia việc hôn phối thành mười cấp bậc khác nhau, tấtcả đều chính thức trong đó có cả việc hôn phối khôngđược gia đình hai bên tán thành và gọi trường hợp nàylà « gandharva ». Đám cưới của A-dục thì được cha mẹbên nhà vợ đứng ra đảm trách đúng theo nghi lễ truyềnthống, ngoài ra cũng cần nhắc thêm là trong xã hội nướcẤn thời bấy giờ không hề có khái niệm về con cái chínhthức hay không chính thức. Tóm lại khi hoàng đế A-dục đưahai người con lớn của ông tháp tùng trong phái bộ hoằngPháp tại Tích lan thì điều này đã chứng tỏ ý định vàquyết tâm của ông. Hai người con tuy sinh ở Ujjain trướckhi ông lên ngôi nhưng điều đó vẫn làm tăng thêm ý nghĩavà tầm quan trọng của phái bộ hoằng Pháp. 

Ngoàisự kiện A-dục lập gia đình ở Ujjain thì không thấy cáctư liệu ghi chép gì khác hơn nữa suốt trong mười năm làmphó vương và cai trị nơi đây, vì thế cũng không ai biếtđược rõ ràng về những việc làm của ông trong thời gianvừa kể.

Nắm thờicơ và thừa kế vua cha

Xem thêm: Cách chơi xúc xắc tố online đổi thưởng chi tiết

Tưliệu về các sự kiện xảy ra trong giai đoạn này đượccác kinh sách Tích lan ghi chép thật phong phú, với đầy đủchi tiết và rất đáng tin cậy, so với những gì tìm thấytrong các tư liệu tìm được ở miền bắc lục địa Ấnđộ. 

Theotục lệ thời bấy giờ thì nhà vua có rất nhiều vợ, mộtsố tư liệu cho biết là Bindusara vua cha của A-dục có đến101 người con trai. A-dục không thuộc dòng thừa kế cũng khôngphải là con cả, có nghĩa là hoàng tử kế nghiệp không phảilà A-dục. Tuy nhiên rất có thể những kinh nghiệm trong mườinăm làm phó vương cai trị Ujjain và các chiến công do ônglập được trong các cuộc chinh phạt và dẹp loạn xảy rasau đó, nhất là tại Taxila, đã khiến triều đình và cảdân chúng chú ý đến ông nhiều hơn so với các hoàng tửkhác.

Khivua cha mất, A-dục được sự hậu thuẫn của quần thầnliền cướp lấy ngôi vua. Ông giết hết hay ít ra cũng gầnhết các anh em trai, chỉ trừ người em cùng mẹ. Theo mộtsố tài liệu thì hình như A-dục cướp ngôi khi được thôngbáo là vua cha lâm bệnh nặng và chưa kịp chỉ định hoàngtử kế nghiệp.

Cáctư liệu thuộc vùng bắc Ấn thì thuật lại câu chuyện thừakế có pha trộn thêm một vài sự kiện mang tính cách diệukỳ và hoang đường. Các văn bản đó khẳng định là mẹcủa A-dục là hoàng hậu chính thức, nhưng trước khi bà đượctuyển vào cung và được phong đệ nhất hoàng hậu thì nhàvua Bindusara cũng đã có một người con trai với một bà khác,người con này tên Susima và đã được chọn làm hoàng tửkế nghiệp. Ngay từ lúc thiếu thời Susima đã bị vị thừatướng của triều đình không thích, vì có lần đùa giỡncậu đã hỗn láo và tát tai vị này. Khi trưởng thành thì cậu được sai đi dẹp loạn ở Taxila và trong khi đangở Taxila thì vua cha là Bindusara lâm bệnh, ông cho trục Susimavề triều và sai A-dục đến thay thế. Vị thừa tướng sợsau này khi Susima lên ngôi sẽ loại trừ mình nên âm mưu cùngmột số bộ hạ tâu lên với nhà vua rằng A-dục đang lâmbệnh không thể sai đi thay được. Sau đó nhóm người nàylại mặc triều phục cho A-dục và đưa đến trình diện vớivua cha, họ yêu cầu Bindusara hãy phong cho A-dục làm hoàngđế trước khi Susima quay trở về kinh đô. Hoàng đế Bindusarabừng bừng nổi giận, A-dục bèn cầu khẩn các vị trờigiúp sức, tức thời vua cha Bindusara thổ máu và chết ngay.Susima hay tin vội vàng trực chỉ kinh đô và lọt vào bẫycủa vị thừa tướng và các vị quan khác trong triều. Trênđây là câu chuyện tóm lược từ các tư liệu Ấn độ, cáchọc giả và sử gia Tây phương không mấy tin vào những chuyệnpha trộn ít nhiều tính cách huyền thoại như thế. Đối vớicác biến cố liên quan đến việc lên ngôi của A-dục thìcác học giả tin vào kinh sách Tích lan nhiều hơn, như đãtrình bày sơ lược ở phần trên.

Dùcho biến cố đưa A-dục lên ngôi thật sự xảy ra như thếnào thì việc thừa kế cũng không phải là chuyện dễ dàng.Tự phong hoàng đế là một việc, nhưng trấn an dân chúng, điều khiển quan lại và loại trừ mọi âm mưu tranh dànhquyền lực để cai trị một đế quốc mênh mông lại làmột chuyện khác. Nhất định A-dục phải đối đầu vớiđám anh em và bộ hạ của họ. Một số tư liệu ghi chéplà A-dục giết hết các anh em khác mẹ với mình và cả cácbộ hạ của họ, tuy nhiên theo các học giả Tây phương thìcuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đó có tính cách phóngđại nhiều hơn là sự thực, mục đích thổi phồng sự hungbạo của A-dục là để chứng minh biệt danh của ông là Chandasoka: tức là Kẻ hung ác Asoka. Cũng theo các học giả Tây phươngthì danh xưng này có thể cũng đã được đặt ra trong mụcđích tạo sự tương phản với một biệt danh khác của ônglà Dharmasoka : có nghĩa là Asoka của Đạo pháp. 

Lên ngôihoàng đế và cai trị xứ sở

 Khoảngbốn năm sau khi chiếm giữ quyền bính và củng cố quyềnhành bằng sắt máu, A-dục tổ chức lễ đăng quan thậtrầm rộ có lẽ theo nghi thức và phong tục Bà-la-môn. Tuy nhiêncũng có vài tư liệu cho rằng đế quốc Maurya có thiết lậpriêng cho mình các nghi thức về lễ đăng quan, trong nghilễ này có sự hiện diện của các vị Bà-la-môn và có cảđại diện của tất cả ba thành phần giai cấp lớn trongxã hội.

Ngàylễ đăng quan được tổ chức vào năm -267 trước Tây lịch,khi đó A-dục khoảng 35 tuổi. Biến cố này giữ một vịthế vô cùng quan trọng đối với lịch sử Phật giáo, vìniên đại chính thức của Phật giáo đều được căn cứvào mốc thời gian trên đây như một điểm chuẩn. Trong mộtquyển sách dầy 675 trang về tiểu sử của A-dục của họcgiả Phật giáo nổi tiếng người Tích lan là Ananda Guruge,thì năm đăng quan là -265 trước Tây lịch, không phải lànăm -267.

Saukhi chính thức lên ngôi, ông phong cho người em trai cùng mẹlàm phó vương và đặt con trai của vị thừa tướng trướcđây của cha mình vào chức thừa tướng. Tuy rằng tất cảcác tư liệu đều công nhận A-dục đã sử dụng những phươngtiện độc ác để nắm lấy chính quyền, nhưng tuyệt nhiênnhững sự kiện này không hề thấy ghi chép trên các mặtđá hay các trụ đá chung với những đoạn mà hoàng đế A-dụcchính thức tỏ bày sự ân hận và hối tiếc về những hànhđộng của mình trong quá khứ, những đoạn ghi khắc chỉnhắc đến sự hung bạo trong các cuộc chiến tranh nhưng khôngnói đến hành vi của ông khi chiếm đoạt quyền bính. Tuynhiên phần lớn các sử gia vì muốn giữ tính cách vô tưtrước lịch sử nên hầu hết đã chấp nhận cho rằng việcchiếm đoạt quyền bính không mấy khi tránh khỏi sự hungbạo, nhưng theo họ thì không đến nổi quá sức tàn ác nhưphần lớn các tư liệu cố ý thổi phồng.

Trongnhững năm đầu tiên của triều đại, hình như hoàng đếA-dục cũng đã mở mang thêm bờ cõi, sáp nhập một số lãnhthổ mới, và theo truyền thống cổ truyền thì ông cũng cóban bố việc tự do tín ngưỡng cho những người dân theo đạoBà-la-môn và các giáo phái khác. Riêng các tư liệu Tích lanthì xoay quanh việc tìm hiểu những nguyên nhân đã thúc đẩyhoàng đế A-dục theo về với Phật giáo và kết luận rằngđấy là một quyết tâm có tính cách riêng tư và đã đượchoàng đế A-dục suy nghĩ thật kỹ từ trước. Cũng theo cáctài liệu này thì ông đã quan tâm đến vấn đề tôn giáotừ lâu và đã nghiên cứu tường tận tất cả các tín ngưỡngthời bấy giờ.

Quy y Phậtgiáo và cuộc chiến Kalinga

 Hầuhết tất cả các sử liệu đều ghi nhận là sự lựa chọnPhật giáo của hoàng đế A-dục mang tính cách cá nhân nhiềuhơn, riêng cho bản thân ông và vì lý tưởng của riêng ông.Tuy nhiên sau khi lên ngôi thì ông mới bắt đầu ý thức rõrệt hơn bổn phận của một Phật tử trong việc hoằng Pháp.Tuy thế các sử liệu lại không hoàn toàn đồng ý với nhauvề động cơ đã thúc đẩy việc lựa chọn Phật giáo củahoàng đế A-dục. Một vài truyền thuyết chẳng hạn như trongkinh Divyavadana, hoặc theo câu chuyện thuật lại trong hồi kýcủa ngài Huyền Trang thì việc quy y Phật giáo của hoàng đếA-dục mang tính cách kỳ diệu và mầu nhiệm. Tuy nhiên phầnlớn các sử liệu khác đều đồng ý cho rằng sự hung bạotrong cuộc chiến tranh đẫm máu ở Kalinga là động cơ trựctiếp và quan trọng hơn hết đã thúc đẩy hoàng đế A-dụcquyết tâm trở thành một Phật tử. Sau đây là một đoạntrích dịch từ một chỉ dụ khắc trên đá của hoàng đếA-dục :

«Támnăm sau khi lên ngôi, nhà vua bạn của các vị trời là Priyadarsinđã chinh phục được lãnh thổ Kalinga. Một trăm năm mươingàn người bị lưu đày ; một trăm ngàn người bị giếttrong các trận chiến ; một số người khác nhiều lần lớnhơn con số đó đã bị thiệt mạng. Sau khi Kalinga bị chiếmthì bây giờ đây là lúc phải hăng hái áp dụng Pháp giới,tôn trọng Pháp giới, phải tuân theo những điều huấn dụghi trong Pháp giới áp dụng trên khắp lãnh thổ của ngườibạn các vị trời. Sự hối hận không buông tha cho ngườibạn của các vị trời sau khi đã chinh phục được Kalinga.Thật vậy, chinh phục một xứ sở độc lập chính là mộthành vi sát nhân, gây ra cảnh chết chóc và lưu đày cho thậtnhiều người : những ý nghĩ đó hiện lên thật mãnh liệtvà dày vò người bạn của các vị trời... » (Phỏngdịch theo học giả Jules Bloch)

Dođó người ta nghĩ rằng hành động quy y Phật giáo của hoàngđế A-dục là kết quả của một quá trình lâu dài của sựsuy nghĩ và hối hận. Theo nội dung các văn bản Pali và cácchỉ dụ thì quyết tâm của hoàng đế A-dục có thể đãphát xuất trực tiếp từ bản chất và tính tình của ôngvà từ những xu hướng đã sẵn có trong ông. Sau khi nắm giữquyền bính bằng vũ lực ông liền chọn ngay các vị quânthần dựa vào đạo đức của họ, ông giao du với các vịhiền triết có thể gọi là thánh nhân lúc bấy giờ. Ôngbiết được Phật giáo khi tình cờ gặp một sa-di (samanera)tên là Nigrodha vào khoảng năm -262. Rất có thể ông đã sửngsốt khi lần đầu tiên nhìn thấy vẻ khiêm tốn và điềmđạm khác thường hiện lên từ gương mặt và cử chỉ củamột sa-di trẻ tuổi. Sau khi tiếp xúc ông lại càng kính nểhơn nữa trước những hành động gương mẫu và thái độtrong sáng của người này, vị sa-di tỏ ra đối với ông hoàntoàn khác hẳn với một số các vị đạo sĩ Bà-la-môn lúcnào cũng bồn chồn, háo thắng mà ông từng quen biết trướcđây.

Ngaysau lễ tấn phong, hoàng đế A-dục bắt đầu nghiên cứu vàtìm hiểu tất cả các tín ngưỡng lớn thời bấy giờ, đồngthời ông tiếp xúc với các nhà tu hành Phật giáo, trong sốnày có nhà sư Nigrodha mà ông đã gặp trước đây. Lên ngôiđược bốn năm thì ông quy y. Tuy nhiên lúc đầu ông chỉquan tâm đến việc bố thí, xây cất chùa chiền và cung cấpcác nhu cầu cần thiết cho tăng đoàn và sau đó thì mời nhàsư Nigrodha làm cố vấn cho ông. 

Kểtừ năm thứ bảy của triều đại (theo học giả Ananda Gurugelà năm -259), ông mới bắt đầu tích cực và nhiệt thànhhơn, nhất là từ khi hai đứa con của ông là Mahinda và Sanghamittaxuất gia. Đây là hai người con của ông với bà vợ « chínhthức » là bà Vedisa-devi, cưới hỏi theo tục lệ cổ truyềnkhi ông còn làm phó vương ở Ujjain. Hai người con lớn xuấtgia làm cho ông cảm thấy gần gũi hơn với tăng đoàn, vàcó lẽ cũng là động cơ thúc đẩy ông tích cực hơn trongviệc bảo vệ và phát triển Phật giáo. Ông khởi sự chămchỉ nghiên cứu kinh sách, học hỏi và lĩnh hội rất nhanhgiáo lý nhà Phật. Ông cũng tự lựa chọn và đưa ra mộtsố kinh sách làm tiêu chuẩn học hỏi cho hàng tu sĩ.

Vàonăm thứ chín của triều đại, tức khoảng năm -257, thì xảyra cuộc chinh phạt Kalinga. Dù là một người đã thấm nhuầnPhật giáo và chủ trương bất bạo động nhưng ông vẫn chấpnhận khởi động cuộc chiến vì theo các chỉ dụ ghi khắctrên đá thì đây là một việc không thể tránh được. Dùsao thì hậu quả của việc chinh phạt Kalinga đã tác độnghết sức mạnh và làm chấn động lương tâm của ông.

Nămthứ mười một thuộc triều đại, lần đầu tiên ông hànhhương viếng cội Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo. Ngườita tìm thấy một chỉ dụ nhỏ không mấy quan trọng ghi chéphẳn hoi hoàng đế A-dục là một « Phật tử » và cũng làmột « vị thầy giảng dạy về những hành vi ngay thật ».Tuy thế không thấy có chỉ dụ nào chính thức nêu lên độngcơ đã thúc đẩy hoàng đế A-dục trở thành một Phật tử.Các văn bản tiếng Pali của Tích lan không hề nói đến cuộcchiến Kalinga mà chỉ thấy đề cập đến các cuộc xung độtkhác, nhưng các cuộc xung đột này thì lại không thấy ghichép trong các chỉ dụ. Dù sao đi nữa thì sự kiện quy y củahoàng đế A-dục là một việc hiển nhiên không thể phủnhận.

Theohọc giả người Pháp là Robert Lingat trong tác phẩm nổi tiếngcủa ông nghiên cứu về các đế vương theo Phật giáo trênthế giới, thì ngay cả việc sử dụng danh từ quy y mà một số học giả đã dùng, thì tự nó cũng đã mang tínhcách lạm dụng hay quá đáng, tức « đi quá xa » và khôngthích nghi để chỉ trường hợp hoàng đế A-dục theo vềvới Phật giáo, vì vào thời bấy giờ « Phật giáo » cònrất « nguyên thủy », không có những hình thức màu mè củanghi lễ tôn giáo như ngày nay. Tăng đoàn chỉ là một tậpthể những người tu hành sống bằng khất thực và khá biệtlập với thế tục. Về phần những « người thế tục theoPhật giáo » thì họ là những cư sĩ (upasak) và không có gìkhác biệt với những người dân khác trong xã hội. Họ chỉcó bổn phận phải tôn kính, giúp đỡ và cung cấp nhữngnhu cầu tối thiểu cho những người xuất gia, và bổn phậnđó cũng không hẳn là một sự bắt buộc.

Hoàngđế A-dục cũng chỉ là một Phật tử, một cư sĩ như nhữngngười khác, không có một trói buộc nào đòi hỏi ông phảithực thi nhiều hơn người khác để tương xứng với uy quyềncủa ông. Hối hận vì trận chiến Kalinga, lòng tôn kính tăngđoàn và sự mộ đạo của ông nhất định là những gì riêngtư, xuất phát từ thâm tâm ông, cũng có thể nói là ông đượcsinh ra với một chủng tử đã có sẵn trong lòng để hướngông vào con đường Phật pháp.

Đạo phápvà sự quản lý xứ sở

Trongcác chỉ dụ ghi khắc trên trụ đá người ta thường thấynhắc đến chữ Pháp hay Đạo pháp (Dharma) mà các họcgiả Tây phương trước đây thường dịch là Luật pháp (Loi,Law), chẳng hạn như trường hợp của học giả Jules Blochđã dịch một chỉ dụ nói về sự hối hận của hoàng đếA-dục mà một đoạn đã được trích dẫn trong phần trìnhbày trên đây. Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt chữ Luật pháptrong bản dịch của Jules Bloch được đề nghị đổi lạithành Pháp giới, tuy không hoàn toàn sát nghĩa nhưng có lẽphù hợp hơn với ý nghĩa trong chỉ dụ. Khi dịch chữ dharmahay dhamma học giả Jules Bloch có thể đã nghĩ đến chữ Svadharma,chữ này có nghĩa là những quy tắc hay kỷ luật mà mỗi ngườiẤn giáo phải tuân thủ phù hợp với giai cấp của mình trongxã hội. Các học giả Tây phương ngày nay không tìm cách chuyểnngữ chữ Dharma nữa mà dùng thẳng tiếng Phạn.

Trongmột chỉ dụ khác, hoàng đế A-dục xác định rất rõ ràngý nghĩa của chữ Dharma là gì : Dharma có nghĩa là « khôngcó nguyên nhân nào làm phát sinh ra tội lỗi, tràn đầy nhữnghành vi đạo hạnh, lòng thương cảm, bố thí, tính trung thực,sự tinh khiết », cách địnhnghĩa đó gợi lại một tiết trong kinh Pháp cú (Dhammapada)như sau : « Tránh làm điều tộilỗi, thực thi những điều đạo hạnh, tinh khiết hoá tâmthức, đấy là những lời Phật dạy». Ngoài ra còn có rất nhiều đoạn trong các chỉ dụ khácmang ý nghĩa tương đương với các câu trong kinh sách nhắcnhở hành vi mà người thế tục phải giữ. Vì thế Dharmatheo hoàng đế A-dục mang ý nghĩa đạo hạnh và hàm chứanhững nguyên tắc đạo đức xã hội, không hề có tính cáchthiêng liêng hay thần bí hàm chứa trong các quy tắc có tínhcách nghi lễ của đạo Bà-la-môn.

Ngoàira còn thêm một điểm đáng chú ý nữa là người ta khôngtìm thấy bất cứ một chỉ dụ nào ghi khắc trực tiếp nhữnglời giảng huấn của Đức Phật, kể cả những câu có tínhcách gợi ý hoặc ám chỉ những khái niệm đặc thùcủa Phật giáo, kể cả những chữ như Giác ngộ, Giải thoát,Luân hồi, Niết bàn...cũng không hề thấy ghi khắc. Điềunày cũng dễ hiểu vì các chỉ dụ được công bố chung chotoàn thể dân chúng, không phân biệt một tín ngưỡng nào.Hoàng đế A-dục đã sử dụng một ngôn ngữ phổ quát, dễhiểu cho tất cả mọi thành phần trong xã-hội, giống nhưtrường hợp trước kia Đức Phật đã từng thuyết giảngcho những người thế tục.

Theophần lớn các học giả và sử gia Tây phương thì dù cho trậnchiến Kalinga không phải là động cơ duy nhất quyết địnhviệc quy y của hoàng đế A-dục đi nữa nhưng đã giữ mộtvai trò then chốt trong việc chuyển hướng toàn bộ về chínhtrị và cách quản lý xứ sở của ông. Ông quyết định từbỏ bạo lực, xảo quyệt và dối trá trong việc quản lývà điều hành xứ sở và nhất quyết chỉ sử dụng sự ngaythật và đạo đức để chinh phục toàn dân. Quyết tâm ấycủa hoàng đế A-dục được ghi nhận một cách rõ rệt khởisự từ năm thứ mười của triều đại, tức khoảng hai nămsau khi trận chiến Kalinga chấm dứt. Suốt trong gần hai nămhối hận và học hỏi thêm Phật pháp bên cạnh tăng đoàn,hoàng đế A-dục đã hoàn toàn thay đổi đường hướng caitrị của mình, ông tôn vinh đạo đức, khuyến khích dân chúnghãy giữ gìn sức khoẻ để được sống lâu, khuyên họ hướngvào những giá trị tinh thần và niềm phúc hạnh nơi cõi cựclạc. Những lý tưởng đó không hẳn là những gì đặc thùcủa Phật giáo mà chung cho tất cả các truyền thống tôngiáo khác lúc bấy giờ.

Guồngmáy hành chính được hoàn toàn cải tổ. Các cấp bậc chínhquyền phải tuyệt đối thực thi chủ trương đạo đức vàngay thật do ông đề xướng. Một số chức vụ mới và quanlại mới được thành lập, chẳng hạn như các vị quan gọilà dharmamahamatra, giữ trọng trách giáo dục, hướng dẫn vàgiải thích về đạo đức cho dân chúng. Các quan chức kháctrong triều cũng phải thay phiên nhau đến gần và tiếp xúcvới dân chúng, giải thích, thuyết phục đường lối đạođức do hoàng triều đề xướng và đồng thời phải tựhành động đạo đức để làm gương. Các người có nghềnghiệp đòi hỏi thường xuyên phải di chuyển, chẳng hạnnhư các người đánh xe ngựa, xe bò, các con buôn, kể cảnhững đoàn người du thực sinh sống bằng nghề múa hát vàkể chuyện trong dân gian cũng được tận dụng, ngoài nghềnghiệp làm kế sinh nhai của họ hoàng triều còn nhờ họgánh thêm một trọng trách nữa là truyền bá đạo đức,làm gương và khuyến khích một lối sống lương thiện vàngay thật với những người mà họ có dịp tiếp xúc.

Hoàngđế A-dục chủ trương thuyết phục và khuyến khích dân chúnghơn là ép buộc và sử dụng luật pháp. Luật lệ và sựngăn cấm chỉ đem ra thực thi trong một số trường hợp thậtkhó khăn, không thể giải quyết được bằng sự tự nguyện,chẳng hạn như việc cấm sát sinh để tế lễ. Giết súcvật để làm lễ hiến sinh là một thói tục ảnh hưởngtừ Ấn giáo và đã ăn sâu vào thói tục của xã hội thờibấy giờ, hoàng đế A-dục phải ra chỉ dụ hẳn hoi cấmđoán việc này. Ông cũng thiết lập những ủy ban thanh trathật tích cực và linh động để kiểm soát việc thực thiđường lối của hoàng triều.

Xem thêm: phần mềm quản lý chi tiêu cá nhân tiếng việt

Một nhàvua Phật tử

Hoàngđế A-dục nâng đỡ Phật giáo trên nhiều lãnh vực. Trướchết và dễ nhận thấy hơn hết là kế hoạch thật quy môcủa ông nhắm vào việc xây dựng chùa chiền, tu viện vàbảo tháp. Tài liệu thời bấy giờ cho biết hoàng đề A-dụcđã thực hiện được 84 000 công trình tất cả, lẽ tấtnhiên con số này có phần nào phóng đại trong mục đích đềcao công đức của A-dục. Kinh sách Pali thì ghi chép nhữngcông trình kiến trúc lớn lao về chùa chiền tại Tích lando hoàng đế A-dục chủ xướng, trong khi đó trên lục địalại dồn mọi nổ lực vào việc xây dựng bảo tháp khắpnơi. Việc xây dựng bảo tháp có mục đích phân tán và đemxá lợi đến gần hơn với dân chúng trong các địa phươngxa xôi trên toàn lãnh thổ. Ông cho khai mở các bảo tháp xâydựng sau khi Đức Phật tịch diệt để đem xá lợi phân phốiđến các bảo tháp mới. Kinh sách thường khẳng định làhoàng đế A-dục là người đầu tiên khởi xướng việc thờcúng Xá lợi, điều này cũng có vẻ hợp lý khi nhìn vào vôsố bảo tháp được xây dựng dưới triều đại của ông.

Riêngvề cá nhân mình thì hoàng đế A-dục thường xuyên giao tiếpvới tăng đoàn, tìm kiếm các vị chân tu để học hỏi. Ôngbiết lắng nghe sự hướng dẫn của tăng đoàn, chẳng hạn có một vị đại sư thời bấy giờ dựa vào một điềm tiêntri đã khuyên A-dục nên khai mở các bảo tháp xưa để phânphối xá lợi. Vì thế xá lợi trước đây được giữ kíntrong những bảo tháp đầu tiên đã được chia ra 84 000 bảotháp mới. A-dục cũng nghe theo lời khuyên và chỉ dẫn củavị La-hán Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) và đi hành hương khắp cácthánh địa của Phật giáo. Ông cũng bày ra tục lệ tổ chứcmỗi năm một ngày lễ thật long trọng để hiến dâng vớitính cách tượng trưng tất cả cung nữ, quan lại của triềuđình và cả lãnh thổ quốc gia cho tăng đoàn, buổi lễ chấmdứt với cảnh nhà vua đem tiền của ra cúng dường tăng đoànđể chuộc lại. Đó là một hình thức để giúp cho ngườixuất gia có ngân khoảng chi dùng. Thiết nghĩ đó cũng là mộtcách giúp đỡ tăng đoàn một cách công khai và đồng thờicũng là một hình thức làm gương cho dân chúng. Các vua chúaPhật giáo khắp nơi ở Á châu thời bấy giờ cũng noi theophong tục này. Hoàng đế A-dục cũng thường công bố hẳnhoi là trên phương diện cúng dường ông cũng muốn đượcxếp ngang hàng với ngài Cấp-cô-độc (Anathapindika) ngày xưađã cúng dường cả khu vườn Kỳ viên để Đức Phật tịnhdưỡng và chu cấp thật rộng rãi nhu cầu cho tăng đoàn.