Sám Hồng Danh 10 Phương Chư Phật 10 Phương Do Niệm Phật Mà Chứng Đắc

Hỏi: Dân gian hay nói “Chín phương trời, mười phương Phật”. Xin vui lòng giải thích đó là những phương nào?Cúc Phương (Đường số 2, cư xá Đô Thành, quận 3, TPHCM)

LÊ ANH MINH:

Bạn đang xem: Sám Hồng Danh 10 Phương Chư Phật 10 Phương Do Niệm Phật Mà Chứng Đắc

A. Chín phương trời hiểu theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc và trung ương.


*

Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã hay cửu thiên bao gồm trung ương và tám phương hướng – tức là tứ chính (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:

(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên (quân: đều đặn, quân bình);(2) Phương Đông là Thương Thiên (thương: màu xanh biếc);(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên (biến: thay đổi);(4) Phương Bắc là Huyền Thiên (huyền: màu đen huyền);(5) Phương Tây Bắc là U Thiên (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);(6) Phương Tây là Hạo Thiên (hạo: sáng trắng);(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên (chu: màu đỏ như son);(8) Phương Nam là Viêm Thiên (viêm: nóng, ngọn lửa);(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên (dương: trái với âm).

Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: phương Đông Bắc là Mân Thiên (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).

Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.

Xem thêm: đề cương ôn tập toán 9 học kì 2 violet

Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên (Trung: ở giữa); Tiện Thiên (tiện: dư thừa); Đồ Thiên (đồ: không có); Phạt Canh Thiên (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên (tối: trọn một năm); Quách Thiên (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên (thành: thành tựu, làm xong).

Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: cửu trùng, cửu giai, cửu tiêu, cửu thiên. Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:

(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên ;(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên;(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên ;(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên ;(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên ;(6) Động Huyền Hóa Ứng Thinh Thiên ;(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên ;(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên ;(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên .

Xem thêm: đề thi học kì 1 lớp 3 môn tiếng anh

(Tham khảo: Trương Chí Triết chủ biên, Đạo giáo văn hóa từ điển, Giang Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994, trang 82).

Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.

B. Mười phương Phật tức là thập phương chư Phật . Mười phương (hay thập phương) gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật; Phật có ở khắp nơi.